Thứ Hai, 10 tháng 12, 2012

"Bên thắng cuộc" sách "nóng" của Osin Huy Đức

Cuốn sách của tôi bắt đầu từ ngày 30-4-1975, ngày nhiều người tin là miền Bắc đã giải phóng miền Nam. Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc. Hãy để cho các nhà kinh tế chính trị học và các nhà xã hội học nghiên cứu kỹ hơn hiện tượng lịch sử này. Cuốn sách của tôi đơn giản chỉ bắt đầu kể những gì đã xảy ra ở Sài Gòn, ở Việt Nam sau ngày 30-4: cải tạo; đánh tư sản; đổi tiền… Cuốn sách của tôi cũng nói về hai cuộc chiến tranh cuối thập niên 1970, một với Khmer Đỏ và một với người Trung Quốc. Cuốn sách của tôi cũng nói về làn sóng vượt biên sau năm 1975, nói về sự “đồng khởi” của nông dân, của các tiểu chủ, tiểu thương để dành lấy cái quyền được tự lo lấy cơm ăn áo mặc.
Tư liệu cho cuốn sách được thu thập trong hơn hai mươi năm, và trong vòng ba năm (từ tháng 8-2009 đến tháng 8-2012) tôi đã dành toàn bộ thời gian của mình để viết. Bản thảo cuốn sách đã được gửi tới một số thân hữu và một số nhà sử học, trong đó có 5 nhà sử học của Mỹ chuyên nghiên cứu về Việt Nam. Sau khi sửa chữa, bổ sung, tháng 11-2012, bản thảo hoàn chỉnh đã được gửi đến một số nhà xuất bản trong nước, tuy nhiên, nó đã bị từ chối. Cho dù một số nhà xuất bản tiếng Việt có uy tín tại Mỹ và Pháp đồng ý in, nhưng để lãnh trách nhiệm cá nhân và giữ cho cuốn sách một vị trí khách quan, tác giả quyết định tự mình đưa cuốn sách này đến tay bạn đọc.
Đây là công trình của một nhà báo mong mỏi đi tìm sự thật. Tuy tác giả có những cơ hội quý giá để tiếp cận với các nhân chứng và những thông tin quan trọng, cuốn sách chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, chắc chắn sẽ còn được bổ sung khi một số tài liệu được Hà Nội công bố. Hy vọng bạn đọc sẽ giúp tôi hoàn thiện nó trong những lần xuất bản sau.
Lịch sử cần được biết như nó đã từng xảy ra và sự thật là một con đường đòi hỏi chúng ta không bao giờ bỏ cuộc.
Huy Đức: Vì sao tôi viết
"Huy Đức viết công trình khảo cứu lịch sử đặc sắc này với lương tâm trong sáng và tay nghề lão luyện của một nhà báo chuyên nghiệp có trách nhiệm trước vận mệnh của đất nước. Có công minh lịch sử mới có hòa giải dân tộc thưc sự" - Chu Hảo, Nhà Xuất bản Tri Thức, Hà Nội, Việt Nam.
Bên Thắng Cuộc là tác phẩm ‘thực’ nhất, cho đến thời điểm này, ghi lại một giai đoạn lịch sử khốc liệt, thông qua tư liệu, của dân tộc từ biến cố 1975 đến nay.” – Đinh Quang Anh Thái, Nhật báo Người Việt, California, USA.
Cuốn sách này nói về những sự thật khốc liệt, nhưng vì rất trung thực nên nó khiến ta bình tĩnh hơn trong thế giới và giữa đất nước khốc liệt ngày nay.” - Nguyên Ngọc, Đại học Phan Chu Trinh, Hội An, Việt Nam.
Cuốn sách phân tích tình hình Việt Nam từ năm 1975 - của một nhà báo sinh ra và lớn lên trong chế độ cộng sản - một cách chuyên nghiệp và công bằng hiếm có. Nó là một kho tàng dữ liệu quý báu, có thể làm ngạc nhiên cả những chuyên viên theo dõi chính trị Việt Nam trong nhiều thập niên qua.” – Nguyễn Mạnh Hùng, Đại học George Mason, Virginia, USA
"Bên Thắng Cuộc của Huy Đức là quyển sách hay nhất về lịch sử Việt Nam sau 1975 mà tôi được biết, kể cả những công trình bằng ngoại ngữ của các học giả nước ngoài... Ở một tầm mức cao hơn, “Bên Thắng Cuộc” lột trần nhiều “huyền thoại” về một số lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam: Họ không phải là những ác quỷ “bán nước” (thậm chí “vô luân” trong đời sống cá nhân) như những người thù ghét họ thường khẳng định, nhưng cũng chẳng phải là những lãnh tụ anh minh, tài đức, luôn luôn gắn bó, đoàn kết với nhau, như ghi trong “chính sử” của Đảng. Họ là những con người với những tị hiềm, những tranh chấp cá nhân, những thiếu sót ở cách cư xử trong gia đình, và, vâng, những sai lầm nghiêm trọng về chính sách, chiến thuật, về đường lối cai trị, và nhất là (theo tôi) cách chọn người của họ. Những sai lầm mà, theo tôi, đã đưa đến hậu quả hiện nay (và vẫn còn tiếp diễn chưa biết đến bao giờ) cho đất nước." - Trần Hữu Dũng/Viet-Studies, Đại học Wright, Ohio, USA. (ảnh trên: THD và nhà văn Nguyễn Ngọc Tư)

25 nhận xét:

  1. Mình chỉ vừa mới đọc qua chương II về Cải Tạo trong cuốn “Bên Thắng Cuộc” của Osin Huy Đức. Thú thật là với một người gần như đã đọc qua tất cả những quyển sách văn học miền Nam trước 75, hồi ký chiến tranh trước và sau 75 như mình..., thì cuốn này của ông Huy Đức vẫn chỉ mới “kể” được cái vỏ chứ chưa trần thuật được cái ruột của phần này. Nhưng mình vẫn có cảm giác rất lạ và cảm kích, có thể vì nó là cái nhìn của một người phía “bên kia”? Phải nói đây là cuốn sách có lẽ là duy nhất mà mình có cảm giác muốn đọc của “bên kia”, không tính “Đỉnh Cao Chói Lọi” của Dương Thu Hương…

    Lướt nhanh qua những phần khác về cải “đánh tư sản”, “ly hương”, đặc biệt cái mình ấn tượng nhất trong quyển I này là vụ “Đốt sách” “Đánh tư sản” “Ngụy Quân -Ngụy Quyền” – có quá nhiều chi tiết rất chính xác mà mình tin chắc là ông Osin đã gặp những người “thật sự” biết rõ…

    Phải nói rằng Osin Huy Đức ngoài việc sử dụng những dữ kiện có thật và chính xác, ông ấy còn thể hiện sự trăn trở và chua xót trong ngôn từ.

    Dự đoán là cuốn sách này sẽ gây ra sóng gió tư tưởng với các bé Hồng Vệ Binh và bút chiến trong phe còn lại.

    Trả lờiXóa
  2. “Chiều 30-4-1975, tại căn cứ Đồng Tâm, Chuẩn tướng Trần Văn Hai, tư lệnh Sư đoàn 7 tự tử bằng thuốc độc

    Sáu giờ 45 phút chiều, hai vị tướng chỉ huy lực lượng Quân lực Việt Nam Cộng hòa ở miền Tây vẫn trao đổi điện thoại với nhau. Tướng Nam cho đến lúc ấy vẫn định phát lời kêu gọi dân chúng Cần Thơ, nhưng cả hai đều biết là quá trễ. Theo Đại tướng Văn Tiến Dũng: “Do sức ép của ta ngày càng mạnh, các Trung đoàn 31, 32, 33 ngụy cùng phần lớn các cơ quan chỉ huy sư đoàn ngụy đã tự động vứt bỏ vũ khí, cởi bỏ áo lính trở về nhà. Chỉ còn một số sĩ quan ngụy cao cấp ở lại để xin đầu hàng ta vào lúc 20 giờ cùng ngày”

    Bảy giờ 30 phút tối 30-4-1975, Tướng Lê Văn Hưng về phòng nói lời từ biệt với thuộc cấp và vợ con. Tám giờ 45 phút, từ dưới nhà, vợ ông, bà Phạm Thị Kim Hoàng, nghe tiếng súng, chạy lên. Khi cùng người nhà cạy cửa phòng, bà Hoàng thấy Tướng Hưng đã chết với một phát súng tự bắn vào đầu. Mười một giờ đêm hôm đó, Tướng Nguyễn Khoa Nam gọi điện thoại cho bà Hoàng chia buồn. Sáng hôm sau, khoảng 7 giờ 30 phút ngày 1-5-1975, Tư lệnh Quân đoàn IV, Quân đoàn cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa, Tướng Nguyễn Khoa Nam tự sát.

    Trước đó, như một hành động nhận lãnh trách nhiệm của mình, ngày 29-4-1975, Tư lệnh Quân đoàn II, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, người đảm trách cuộc triệt thoái thất bại khỏi ba tỉnh Cao Nguyên, đã tự tử bằng một liều thuốc độc; gia đình đã đưa vào bệnh viện Grall, nhưng đến trưa 30-4-1975, khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, thì tắt thở.

    Cũng trưa 30-4, tại Lai Khê, Tướng Lê Nguyên Vỹ tự sát tại Bộ Tư lệnh Sư đoàn 5 sau khi cho binh lính rã ngũ. Vào lúc 2 giờ chiều ngày 30-04-1975, Ðại tá Đặng Sĩ Vinh cùng gia đình gồm vợ và bảy người con đã tự tử bằng súng lục.

    Nhưng đấy vẫn chưa phải là những phát súng cuối cùng của cuộc chiến tranh. Nhiều quân nhân vô danh vẫn tìm đến cái chết trong những ngày sau đó.”

    —————————————————

    “Ở Sài Gòn, 443.360 người ra trình diện, trong đó có hai mươi tám viên tướng, 362 đại tá, 1.806 trung tá, 3.978 thiếu tá, 39.304 sỹ quan cấp uý, 35.564 cảnh sát, 1.932 nhân viên tình báo các loại, 1.469 viên chức cao cấp trong chính quyền, 9.306 người trong các đảng phái được cách mạng coi là “phản động”. Chỉ 4.162 người phải truy bắt trong đó có một viên tướng và 281 sỹ quan cấp tá.”

    —————————————————

    “Cũng trong ngày hôm ấy, lệnh học tập cải tạo được thông báo đến các sỹ quan theo đó, “sỹ quan quân đội Nguỵ, cảnh sát, tình báo biệt phái từ thiếu uý đến đại uý” được hướng dẫn: “Phải mang giấy bút, quần áo, mùng màn, các vật dụng cá nhân, lương thực, thực phẩm [bằng tiền hoặc hiện vật] đủ dùng trong mười ngày kể từ ngày đến tập trung”. “Sỹ quan cấp tướng, tá”, được hướng dẫn mang theo “thực phẩm, lương thực đủ dùng trong một tháng”.”

    —————————————————

    “Không ai biết rằng, từ ngày 18-4-1975, Chỉ thị 218/CT-TW của Ban Bí thư đã quy định: “Đối với sỹ quan, tất cả đều phải tập trung giam giữ quản lý, giáo dục và lao động; sau này tùy sự tiến bộ của từng tên sẽ phân loại và sẽ có chính sách giải quyết cụ thể. Những người có chuyên môn kỹ thuật [kể cả lính và sỹ quan] mà ta cần thì có thể dùng vào từng việc trong một thời gian nhất định, nhưng phải cảnh giác và phải quản lý chặt chẽ, sau này tuỳ theo yêu cầu của ta và tuỳ theo sự tiến bộ của từng người mà có thể tuyển dụng vào làm ở các ngành ngoài quân đội. Đối với những phần tử ác ôn, tình báo an ninh quân đội, sỹ quan tâm lý, bình định chiêu hồi, đầu sỏ đảng phái phản động trong quân đội, thì bất kể là lính, hạ sỹ quan hay sỹ quan đều phải tập trung cải tạo dài hạn, giam giữ riêng ở nơi an toàn và quản lý chặt chẽ”

    Trả lờiXóa
  3. “Việc đưa vào tù hàng trăm nghìn con người đã buông súng hoặc không hề cầm súng, không bằng một bản án của tòa, sau ngày 30-4-1975, và đặc biệt, câu chuyện đưa 1.652 con người trên tàu Việt Nam Thương Tín vào tù được kể lại sau đây, thật khó để nói là may mắn.”

    —————————————————

    “Tối 10-9-1975, “tin chiến thắng” liên tục được báo về “Đại bản doanh” của Trung ương Cục đóng tại Dinh Độc Lập. Con số bị bắt cho đến khi ấy vẫn tăng lên. Các đoàn đưa ra những con số chi tiết: hàng chục triệu tiền mặt, hàng chục ký vàng, cả “kho” kim cương, hàng vạn mét vải và cả một cơ sở chăn nuôi gồm “7.000 con gà, thu hoạch 4.000 trứng mỗi ngày”120 ở Thủ Đức. Một nhà tư sản đang nằm viện bị yêu cầu kiểm tra xem ốm thật hay cáo bệnh, trong khi đó con trai ông ta bị bắt để buộc phải khai ra nơi cất giấu tiền, vàng. Do tin tức bị lọt ra, một số nhà tư sản đã kịp cao chạy xa bay, có người bị bắt khi đang chuẩn bị trốn.”

    “Ông Mai Chí Thọ tuyên bố: “Một tên tư sản Hoa có thể có từ 500 đến 1 ngàn lượng vàng. Qua chiếm lĩnh và khai thác ta mới hỏi sơ chứ chưa lục xét, chưa truy sâu nên có thu được vàng và ngoại tệ, nhưng so với số chúng đã có thì chưa bao nhiêu. Vì vậy, các đoàn cần đi sâu lục soát hơn nữa trong nhà chúng để truy vàng bạc và ngoại tệ. Phải dựa vào quần chúng, người làm công ở mướn phát động họ để phát hiện nơi giấu cất”. Một tuần trước khi Chiến dịch X-2 diễn ra, do vật giá tăng quá cao, chính quyền đã “đánh” một số đối tượng bị quy là lũng đoạn thị trường, nhất là thị trường bột ngọt”

    —————————————————

    “Trước Chiến dịch X-2, chính quyền đã “bắt chín mươi hai tên tư sản mại bản đầu sỏ, đã mời ra làm việc bốn mươi bảy người. Đã có ba bỏ trốn và một tự sát”.

    Những gì mà Cách mạng lấy được của “nhà giàu” trên toàn miền Nam được liệt kê: “Về tiền mặt ta thu được 918,4 triệu đồng tiền miền Nam; 134.578 Mỹ Kim [trong đó có 55.370 USD gửi ở ngân hàng]; 61.121 đồng tiền miền Bắc; 1.200 đồng phrăng (tiền Pháp)…; vàng: 7.691 lượng; hạt xoàn: 4.040 hột; kim cương: 40 hột; cẩm thạch: 97 hột; nữ trang: 167 thứ; đồng hồ các loại: 701 cái. Trong các kho tàng ta thu được: 60 nghìn tấn phân; 8.000 tấn hoá chất; 3 triệu mét vải; 229 tấn nhôm; 2.500 tấn sắt vụn; 1.295 cặp vỏ ruột xe; 27.460 bao xi măng; 644 ô tô; 2 cao ốc; 96.604 chai rượu; 13.500 ký trà; 1000 máy cole; 20 tấn bánh qui; 24 tấn bơ; 2.000 kiếng đeo mắt; 457 căn nhà phố; 4 trại gà khoảng 30.000 con và một trại gà giá 800 triệu; 4.150 con heo; 10 con bò, 1.475.000 USD thiết bị tiêu dùng; 19 công ty; 6 kho; 65 xí nghiệp sản xuất; 4 rạp hát; 1 đồn điền cà phê, nho, táo rộng 170 hecta ở Đà Lạt”

    —————————————————

    “Tại Sài Gòn, 28.787 hộ tư sản bị cải tạo, phần lớn bị “đánh” ngay trong bốn ngày đầu với 6.129 hộ “tư sản thương nghiệp”, 13.923 hộ “trung thương”. Những tháng sau đó có thêm 835 “con phe”, 3.300 “tiểu thương ba ngành hàng”, 4.600 “tiểu thương và trung thương chợ trời” bị truy quét tiếp. Theo ông Huỳnh Bửu Sơn, người trông coi kho vàng của Ngân hàng, trong đợt đánh tư sản này, Cách mạng thu thêm khoảng hơn năm tấn vàng, chưa kể hạt xoàn và các loại đá quý. Có những gia đình tư sản giấu vàng không kỹ, lực lượng cải tạo tìm được, khui ra, vàng chất đầy trên chiếu.”

    —————————————————

    Cải cách ruộng đất II xảy ra ở miền Nam:

    Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: “Lúc đầu, tôi cũng cứ tưởng cải tạo tư sản sẽ khác với cải cách ruộng đất, một sai lầm mà những người ở miền Nam chúng tôi nhắc nhau phải tránh. Nhưng, tiến hành rồi mới thấy, cách cải tạo tư sản thương nghiệp mà anh Đỗ Mười làm, cũng không khác gì đánh tư sản mại bản nhưng tràn lan hơn. Anh Đỗ Mười làm cải tạo cũng thành thật lắm. Giữa thập niên 1980, khi tôi ra Hà Nội vẫn thấy anh Đỗ Mười kêu những người buôn bán là bọn con buôn”.

    Trả lờiXóa
  4. Ngày hôm qua tôi đã đọc xong bản điện tử của quyển một (Giải Phóng) của bộ sách mới của anh Huy Đức với tựa đề Bên Thắng Cuộc gần như liên tục trong vòng 9 tiếng. Chủ đề của cuốn sách, những vấn đề mà nó xem xét cũng là những điều làm tôi suy nghĩ vương vấn trong đầu nhiều năm nay.

    Là một nhà báo năng động và thành công ở Sài Gòn trong giai đoạn Việt Nam đổi mới, anh Huy Đức có lợi thế gần như không ai có được ở khả năng tiếp cận với các cá nhân đã từng hoặc vẫn đang là giới chức cao cấp hàng đầu của CHXHCN Việt Nam và các nhân sỹ, trí thức và cựu quan chức của Việt Nam Cộng Hòa. Khả năng ngoại ngữ và góc nhìn hướng ngoại của anh cũng giúp anh gặp gỡ với các nhân vật Mỹ có liên quan tới giai đoạn lịch sử thời chiến tranh Việt Nam. Nhờ những lợi thế này anh Huy Đức đã gom góp được một nguồn sử liệu khổng lồ từ các trao đổi cá nhân thu thập từ chính nhân vật lịch sử. Các thông tin nguồn chính này kết hợp với các nguồn tham khảo đồ sộ mà tác giả sử dụng tạo dựng cho cuốn sách này vị thế của một tác phẩm kinh điển tức thì về lịch sử Việt Nam. Tôi tin rằng hàng chục năm nữa người ta vẫn sẽ còn tiếp tục trích dẫn từ cuốn sách này.

    Anh Huy Đức không được đào tạo về những phương pháp hiện đại nghiên cứu và tái dựng lịch sử. Anh cũng không được đào tạo bài bản và chuyên nghiệp về báo chí mà đã tự học lên từ thực tế công việc. Biết vậy tôi càng cảm phục hơn tinh thần và nỗ lực làm việc nghiêm túc mà tác giả đã đổ vào tác phẩm đồ sộ này. Tôi dễ dàng cảm nhận thấy từ giọng văn bình thản, lối trình bày thông tin, dữ liệu tương đối cân bằng; cách tác giả không sa đà vào phân tích; cách đặt tên các tựa đề và đề mục là tác giả đã bỏ công nghiên cứu cấu trúc và phương pháp viết sử tương đối khoa học của các tác giả Mỹ viết sử Việt Nam như Stanley Karnow (Vietnam: A History), William Duiker (Ho Chi Minh: A Life), Sophie Quinn-Judge (Ho Chi Minh – The missing years). Tôi tin cuốn sách này đã xác lập chắc chắn vị trí của anh Huy Đức trong số những người viết sử Việt Nam hàng đầu

    Tôi muốn nhấn mạnh nhận xét về cách tác giả không sa đà vào phân tích. Điểm này đặc biệt ở chỗ nó khác hoàn toàn văn phong báo chí đã trở nên quen thuộc của chính tác giả. Giống phần lớn người viết Việt Nam học và làm nghề viết trong môi trường không đề cao kỹ năng viết, nhà báo Huy Đức có xu hướng mắc phải những lỗi lập luận đơn giản mà một nhà báo phương Tây chịu sự kiểm tra kỹ càng của công chúng ít mắc. Tôi sơ cử ra hai lỗi đã thấy ở anh Huy Đức: một là trích dẫn một nguồn uy tín và coi đó nghiễm nhiên là sự thật và hai là xuất phát từ định kiến có sẵn khai triển lập luận. Tôi cảm thấy vui mừng khi cảm nhận thấy anh Huy Đức đã áp dụng một cách thức trình bày và phân tích thông tin dữ liệu cân bằng, khách quan và bình thản. Cách tác giả đưa ra một lượng thông tin ngồn ngộn rồi để độc giả tự nghiền ngẫm và quyết định cách phân tích và cảm nhận theo tôi là cách tốt nhất khi viết về một vấn đề vẫn còn gây tranh cãi, chia rẽ, xung đột, và kể cả thù hằn là vấn đề chiến tranh Việt Nam...
    (Click tiêu đề xem toàn bài)

    Trả lờiXóa
  5. Võ Văn Kiệt) Người hành quyết bao dung
    Cuốn sách khởi đầu với hình ảnh cụ Kiệt trong những giờ phút cuối cùng chuẩn bị vào Sài Gòn ngày 29-30/4-1975. Sau đó cụ xuất hiện thường xuyên trong suốt chiều dài cuốn sách với tần suất đủ cao để coi cuốn sách là một biên niên sử về cụ. Tuy nhiên, tác giả không bắt cụ phải phát biểu những lời quyền uy, hiệu lực như trong các bài báo ngắn mà đưa ra một hình tượng VVK rất con người, rất có lý mà cũng lại rất có tình. Việc này giúp khẳng định lại một lần nữa hình ảnh VVK tích cực trong lòng quần chúng nhân dân.

    Ấn tượng mình thu nhận được về VVK là về một vị lãnh đạo bao dung, sẵn sàng bắt tay, nâng đỡ những người mà xã hội lúc bấy giờ xua đuổi. Có khoảng vài chục ví dụ về VVK tham vấn, hỗ trợ, nâng đỡ các trí thức cũ bằng cách cho người ta công ăn, việc làm, thực phẩm, dìu dắt con người ta, mở rào cho con cái người ta đi ra nước ngoài; VVK giúp cho các đôi yêu đương có vấn đề về lý lịch được cưới nhau; VVK thành lập lực lượng thanh niên xung phong rồi tổ chức đám cưới cho một đôi, vv.

    Sau khi đọc một vài mẩu chuyện về VVK thì mình bắt đầu suy nghĩ là mặc dù ông có lẽ đúng là một người bao dung, nhân hậu nhưng ông đồng thời cũng là người có trách nhiệm chính tạo ra những khó khăn cho những người mà giờ ông đang phá rào để giúp đỡ. Đành rằng nhiều chủ trương rất lớn ví dụ như tập trung học tập cải tạo là do trung ương quyết định và ông dù muốn cũng không đảo ngược được xu thế nhưng đồng thời chính ông cũng là người chủ trương hoặc người quyết định mức độ thực hiện một số chính sách khác làm điên đảo cuộc đời người ta. Sau chừng dăm mười truyện kể để minh họa hình ảnh ông Thiện VVK mình bắt đầu nghĩ tới hình ảnh người hành quyết khoan dung lấy miếng vải lau sạch cái lưỡi đao để tránh nhiễm trùng cho người sắp bị chém đầu. Nói thế thì nghe có vẻ nặng nề nhưng đúng thực là ông VVK không thể nào ra một quyết định chính sách mà sau đó không quay lại tạo ra một ngoại lệ đối xử cho người này người khác. Có một mẫu hình lặp đi lặp lại từ cả những ví dụ trong sách này và những giai thoại ngoài đời (vụ đường dây 500KV, vụ Dung Quất) mà ở đó người ta thấy VVK hoặc là một người tiền hậu bất nhất không thể không xoay xở một chút với các chính sách ngay cả do chính ông đưa ra hoặc là một kịch sỹ, một chiến sỹ dân vận địch vận có tài. Chắc chắn ông không thể không biết về ấn tượng ông tạo ra cho quần chúng như một người ôn hòa và khoan dung với đối phương, với phía bên kia, viên cảnh sát hiền trong trò chơi good cop bad cop. Mình có nghi ngờ là VVK chỉ chờ chính sách bắt đầu có hiệu lực (tạo ra khó khăn cho ai đó) để cụ bắt đầu ra tay cứu giúp, hỗ trợ người ta và việc này mang lại cho cụ nhiều cảm giác sảng khoái.

    Rất nhiều chính sách tạo ra và thực hiện ở SG thời hậu chiến có tác dụng lập tức đẩy nhiều người vào chỗ chết. VVK trong vai trò là lãnh đạo cao nhất của thành phố không thể được coi là bị động hay không liên quan. Hình ảnh ông Thiện VVK mà tác giả trình ra chỉ thể hiện một mảng nhỏ về con người lãnh đạo VVK, có lẽ chỉ là một thứ thú vui kiểu mèo khóc chuột của ông...
    (Click tiêu đề xem toàn bài)

    Trả lờiXóa
  6. Tôi rời Campuchia trước khi Việt Nam rút hết “Quân tình nguyện”. Khi học ở trường chuyên gia quân sự 481, chúng tôi được chuẩn bị tư tưởng để “giúp bạn lâu dài”. Nhưng thay vì ở lại hàng thập niên, tôi chỉ phải ở lại Campuchia gần bốn năm. Tôi quyết định rời quân đội. Một cá nhân cũng như một quốc gia, súng ống chỉ nên được lựa chọn khi không còn con đường nào khác.

    Cuối năm 1987, tôi bắt đầu làm việc ở Văn phòng huyện ủy Nhà Bè. Thời gian ấy, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đang viết “Những việc cần làm ngay”. Công việc ở Văn phòng huyện ủy thật an nhàn, tôi đã sử dụng phần lớn thời gian để viết văn và viết bài cho các báo. Sau khi đọc những bài báo ấy, Bí thư huyện ủy Trần Văn Đông giao cho tôi phụ trách biên tập tờ tin và đài truyền thanh huyện Nhà Bè. Chỉ mấy tháng sau, tôi được nhà văn Nguyễn Đông Thức đưa về Tuổi Trẻ.

    Không chỉ có kho sách cực kỳ phong phú của thư viện Đắc Lộ mà tờ Tuổi Trẻ tiếp quản sau khi các giáo sỹ dòng Tên bị bắt năm 1979, đội ngũ Tuổi Trẻ thời “161 Lý Chính Thắng” cũng là một “kho tư liệu” vô giá. Không phải ai ở trong cái không khí “thanh niên sôi nổi” ấy cũng biết hết những trắc ẩn trong lòng các đồng nghiệp của mình.

    Ở đây, tôi gặp những đồng nghiệp về sau trở thành nhân vật trong cuốn sách của mình. Ở đây, tôi gặp những con người lặng lẽ, tưởng quá khứ đã được chôn chặt, như: biên tập viên Lệ Xuân, con gái ông Nguyễn Thành Đệ, người sau khi đóng 200 lượng vàng để vượt biên theo Phương án II không thành bị lấy nốt căn nhà cuối cùng[1]; thư ký tòa soạn Võ Văn Điểm – chủ biên đầu tiên của tờ Tuổi Trẻ Chủ Nhật, Tuổi Trẻ Cười – người có vợ và hai con chết trên biển trong một chuyến vượt biên.

    Thế hệ chúng tôi may mắn được làm báo sau “đổi mới”. Những người viết có trách nhiệm nhận thấy một cơ hội to lớn sau tuyên bố “cởi trói” của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh để không còn tiếp tục sự nghiệp viết lách bằng thứ văn chương minh họa hay báo chí tô hồng. Đó là một thời đáng nhớ của văn nghệ và báo chí. Rất tiếc là chỉ hơn một năm sau khi Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh kêu gọi văn nghệ sỹ tự cứu mình, tự ông đã có nhiều thay đổi.

    Ngay trong khuôn viên 161 Lý Chính Thắng, chúng tôi có thể cảm nhận sự căng thẳng. Có lúc một số phóng viên Tuổi Trẻ đã phải chuẩn bị cho khả năng bị khởi tố. Có những buổi chiều, nhất là sau khi Tổng biên tập Vũ Kim Hạnh đi gặp Phó bí thư Thành ủy Bảy Dự Nguyễn Võ Danh, đi gặp Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, đi gặp Bộ trưởng Bộ Nội vụ Mai Chí Thọ trở về…, chúng tôi nín thở chờ chị bàn bạc với anh Ba Lãng[2]. Những hôm gay cấn, hai người còn phải tham vấn Cựu Tổng biên tập Võ Như Lanh[3]. Cho đến trước khi ông Nguyễn Văn Linh hết nhiệm kỳ, những người tiên phong trong văn nghệ, báo chí đều phải ra đi gần hết.

    Tuổi Trẻ còn tạo cơ hội cho tôi bước ra bên ngoài khuôn viên “161 Lý Chính Thắng”. Tôi may mắn được phân công viết đủ các loại đề tài, từ chính trị tới xã hội, từ kinh tế tới văn hóa, từ hoạt động của các cơ quan tố tụng đến các hoạt động của bộ máy Đảng, Nhà nước, từ trung ương tới địa phương. Từ năm 1989, tôi trực tiếp đưa tin hầu hết các vụ án lớn xảy ra trên cả nước, theo dõi từ giai đoạn khởi tố điều tra cho đến khi nội vụ được đưa tới tòa. Cũng từ năm 1989, tôi được giao viết về các kỳ họp Hội đồng nhân dân và sau đó có mặt ở Hội trường Ba Đình gần như mỗi kỳ Quốc hội họp.

    Trả lờiXóa
  7. Những năm đầu thập niên 1990, chúng tôi được bố trí ăn, ở với các đoàn đại biểu tại nhà khách số 8 Chu Văn An; được dự hầu hết các phiên thảo luận mà các đại biểu đang là ủy viên Trung ương, ủy viên Bộ chính trị. Chúng tôi cũng dễ dàng gặp gỡ, trò chuyện với Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Tổng bí thư Đỗ Mười, Chủ tịch nước Lê Đức Anh, Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Thủ tướng Phan Văn Khải, Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo và Tổng bí thư Nông Đức Mạnh… Cánh nhà báo chúng tôi[4] có nhiều cơ hội trao đổi, đủ loại thông tin, với các nhà lãnh đạo cả khi tác nghiệp, cả khi bên tách trà và không ít khi bên chén rượu.

    Chính trường được phản ánh trong cuốn II bao gồm những gì mà tác giả có thể quan sát từ cự ly rất gần. Ở những thời điểm nóng bỏng nhất, tôi có thể vào tận phòng làm việc hỏi chuyện Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Thủ tướng Phan Văn Khải; tôi cũng có không ít dịp đến nhà riêng, vào phòng làm việc của Tổng bí thư Đỗ Mười, Tổng bí thư Lê Khả Phiêu… phỏng vấn. Chúng tôi chứng kiến một cách trực tiếp các xung đột giữa những người chủ trương kinh tế thị trường với những người lo “chệch hướng”, những xung đột đã làm biến dạng khá nhiều chính sách.

    Tất cả những tư liệu ấy đều được tôi lưu trữ. Nhưng không chỉ dừng lại ở những ghi chép của mình, từ năm 2003, khi bắt đầu tập trung phần lớn thời gian cho cuốn sách này, tôi ngồi điểm lại toàn bộ tư liệu mình đã thu thập được, đánh dấu các khoảng trống và bắt đầu tiến hành thêm hàng ngàn cuộc phỏng vấn. Với sự giúp đỡ của một nhóm sinh viên và một số nhà nghiên cứu trẻ, tôi bắt đầu đối chiếu lời kể của các nhân chứng với các ghi chép của chính họ, của tôi (với các sự kiện mà mình trực tiếp quan sát trong thời gian làm báo), đối chiếu với báo chí ở các thời điểm khác nhau, với lời kể giữa các nhân chứng và đặc biệt là đối chiếu với các tài liệu gốc, gồm thư từ, công văn, chỉ thị, nghị quyết và biên bản các cuộc họp.

    Cuốn II bắt đầu từ thời điểm ông Nguyễn Văn Linh lên cầm quyền cho đến khi ba ông cố vấn đưa ông Lê Khả Phiêu ra khỏi chiếc ghế tổng bí thư. Tuy có những câu chuyện còn kéo dài đến sau Đại hội Đảng lần thứ XI (1-2011), nhưng hai chương cuối của cuốn II chủ yếu nói về “cái đuôi” chủ nghĩa xã hội và những hệ lụy mà xã hội Việt Nam đang gánh chịu.

    Chương Tướng Giáp được đặt ở vị trí cuối phần “Dấu ấn Nguyễn Văn Linh”, bắt đầu bằng một nỗ lực nhằm hạ uy tín của “vị tướng Điện Biên” diễn ra cuối nhiệm kỳ của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh nhưng chủ yếu nói về mối quan hệ giữa Lê Duẩn – Tướng Giáp – Lê Đức Thọ. Những xung đột quyền lực đã chi phối phần lớn các quyết định liên quan đến cuộc chiến diễn ra thời thập niên 1960, kéo dài tới giữa thập niên 1980, liên quan đến không ít máu xương và để lại khá nhiều di chứng. Phần còn lại của cuốn II chủ yếu viết về những gì diễn ra bên trong Ba Đình thời thập niên 1990. Thời mà ý thức hệ không chỉ tồn tại như một đức tin của những người cầm quyền mà còn trở thành những công cụ chính trị phục vụ cho quyền lực.

    Tuy nhiên, Quyền Bính không phải là một cuốn sách nói chuyện “thâm cung bí sử” cho dù có nhiều câu chuyện, có nhiều nhân vật được đặc tả rất cận cảnh. Những câu chuyện được kể trong cuốn sách này là sự chia sẻ của rất nhiều người trong cuộc về một giai đoạn mà Việt Nam đã bỏ lỡ những cơ hội có thể đi tới mục tiêu “công bằng, dân chủ, văn minh” do chính đảng cầm quyền đề ra. Tuy kinh tế thị trường đã làm thay đổi bộ mặt quốc gia và đời sống nhân dân nhưng Việt Nam vẫn tụt hậu cho dù “nguy cơ” này đã được chỉ ra từ năm 1994.

    Trả lờiXóa
  8. Chính sách đất đai, thay vì lựa chọn những phương thức sở hữu giải phóng tối đa tiềm lực trong đất và trong dân lại cứ tự trói buộc vào sở hữu toàn dân, chỉ vì phương thức này được coi là đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế thay vì chọn phương thức hiệu quả nhất đã phải để cho kinh tế nhà nước làm chủ đạo. Hệ thống chính trị thay vì lấy sự minh bạch, đảm bảo nguyên tắc kiểm soát quyền lực để có thể mang lại công lý và tránh tham nhũng, lạm quyền lại ưu tiên đảm bảo vị trí cầm quyền của Đảng.

    Quyền Bính tiếp tục nói về những khúc quanh của Việt Nam. Nói về những thời điểm mà Đảng cầm quyền thay vì nắm bắt tư duy của thời đại và ý chí của nhân dân, chỉ có thể loay hoay trong một cái vòng tự vẽ. Hệ thống chính trị, trải qua nhiều thế hệ, càng về sau lại càng có ít khả năng khắc phục sai lầm.

    Sài Gòn – Boston (2009-2012)

    [1] Cho đến Năm 2005, ông Nguyễn Thành Đệ đã chết gục trên bàn tiếp dân của Sở Xây dựng, kết thúc bi kịch đòi lại căn nhà mà ông đã bị tịch thu năm 1979.

    [2] Tên thường gọi của ông Trần Minh Đức, Phó tổng biên tập Tuổi Trẻ 1981-1997, người được coi là “bộ óc chiến lược” của báo.

    [3] Tổng biên tập Tuổi Trẻ 1979-1983, Phó tổng biên tập báo Sài Gòn Giải Phóng 1983-1990 và sau đó là Tổng biên tập Thời báo Kinh tế Sài Gòn 1990-2006.

    [4] Gồm Lê Thọ Bình, Tâm Chánh, Thanh Tâm, Phan Ngọc, Bùi Thanh, Kim Trung, Minh Đức, Minh Hà…

    Trả lờiXóa
  9. Theo chúng tôi, quyển sách này nói lên mục tiêu sâu xa của tác giả, là: “The Truth will set you free – Sự thật sẽ giải phóng cho con người”. Sống mãi trong sự dối trá, tinh thần con người được cấu tạo bởi toàn cái giả. Khi biết được Sự Thật, người ta được giải phóng ra khỏi khối sương mù giả dối. Quyển sách Bên Thắng Cuộc nhằm mang lại sự thật cho dân Việt Nam, nhất là khối dân đang ở trong nước, hằng ngày vẫn đọc vẫn nghe 800 tờ báo và các loại đài, nhưng tất cả đều đồng ca một điệu, vì được điều khiển chỉ bởi một tổng biên tập, là đảng CSVN. Trong lời mở đầu Huy Đức có nói “... chính những người cộng sản cũng không có điều kiện để hiểu những gì Đảng đã mang đến cho đất nước này. Những người cộng sản có lương tri chắc chắn sẽ đón nhận sự thật một cách có trách nhiệm. Không ai có thể đi đến tương lai một cách thành công nếu không hiểu trung thực về quá khứ.” Ngụ ý quyển sách cho thấy các giá trị như nhân quyền, tự do về tư tưởng và văn hóa, tự do tín ngưỡng, ngôn luận, cư trú và về kinh tế v.v. (những đặc điểm của nền tảng cho chế độ miền Nam) ngày càng là các đòi hỏi bức thiết của mọi tầng lớp dân chúng Việt Nam.

    Quyển sách cần được đọc nhiều lần vì nó giúp người đọc có một cái nhìn về chính trường – XHCN nhất là sau tháng 4 năm 1975. Người Việt Nam có thể nhìn một cách bao quát và hiểu rõ hơn về những chuyện đã xẩy ra mà “nhà nước” không muốn họ nghe hay hiểu.

    Người đọc quyển sách này tin rằng “The truth will set you free - Sự thật sẽ giải phóng bạn” là mục đích của tác giả Huy Đức và điều này sẽ mang nhiều thay đổi tích cực cho VN vì họ có thể đánh giá lịch sử cận đại với một các nhìn tổng quát mà ĐCSVN không muốn họ thấy. Quyển sách này sẽ giúp hai phe (thắng và thua, nói tóm là dân VN) tái khẳng định sự thật qua những việc đã xẩy ra từ 1975 đến nay. Vì mù quáng hay ngây thơ theo một chủ nghĩa mà VN đã phải trải qua bao vấn nạn, bao khó khăn, một kinh tế thịnh vượng miền Nam bị phá hủy hoàn toàn chỉ vì … “quá ngu xuẩn vì duy ý chí.”

    Sống trong lòng chế độ ở Việt Nam mà đề cập tới các sự kiện viết trong quyển sách này là một điều khó khăn và là mối đe dọa cho cá nhân Huy Đức. Tác giả, dù được đào tạo trong một thể chế độc tài, đã tự vượt ra khỏi đủ loại trói buộc để dũng cảm nói lên các ưu tư chân thật về những vấn đề của đất nước. Điều đó cho thấy sự đè nén và dối trá không thể nào đày ải con người lâu dài mãi mãi, phải có lúc ý thức và lương tri bùng lên để cất tiếng nói trung thực của mình.

    Mong là qua quyển sách này sẽ có sự tái xác định về XHCN và mạnh mẽ tiếp tục “Đổi Mới” theo kinh tế thị trường, nhà nước đối sử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế, chấm dứt việc ưu đãi quốc doanh thối nát kém hiệu quả, và những nhóm tư bản bè phái (crony capitalism). Phải có quyền bình đẳng kinh tế trong việc sở hữu các phương tiện sản xuất, nhất là đất đai (nói là do dân làm chủ tập thể đất nhưng các quan trong bộ máy nhà nước được giữ quyền quản lý, đòi lại đất từ người nông dân bất cứ lúc nào. Việc này tạo ra nạn tham ô, oán hận và phản đối kéo dài).

    Văn hào Nga Alexander Solzhenitsyn đã nói trong diễn văn nhận giải Nobel Văn Chương của ông: “Một lời nói của sự thật có trọng lượng hơn cả trái đất. One word of truth shall outweigh the whole world”.
    Với Sự Thật, dân ta sẽ được giải phóng. Quyển sách này, như một bước mở đầu, đang làm công việc đó.
    TS Đinh Xuân Quân

    Trả lờiXóa
  10. 3- Dối Trá Về Sự Yếu Kém Của Giới Lãnh Đạo Đảng Cộng Sản Và Nhà Nước Việt Nam
    a) Khi hùng hồn nói về “sự yếu kém” hoặc … ngu xuẩn của giới lãnh đạo Đảng và Nhà Nước Việt Nam, Huy Đức đã sủa nhặng lên về cái gọi là thời cơ kinh tế khi Cộng sản bỏ lỡ cơ hội vào WTO trước Trung Quốc vì “nhường” Trung Quốc, hay về những lời nói giữa các lãnh đạo Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ, v.v. và v.v., mà có một tên Tiến Sĩ tên Quân thì phải hân hoan cho là đáng tham khảo mà không biết đã phạm một tội đại ngu mà không một tiến sĩ thực thụ nào phạm phải: đó là nguồn gốc xuất xứ các lời nói, các thông tin. Một thằng nhóc 13 tuổi ngày giải phóng 30-4-1975, tại một đất nước có các lãnh đạo bảo thủ cực kỳ xem trọng thứ bậc nội bộ (nghĩa là cởi mở với “dân” để “gần” dân, nhưng không bao giờ cho phép có sự tiếp cận của người “nội bộ” nào không ở cấp lãnh đạo hay cấp cao tương xứng), thì khi Huy Đức sinh sau đẻ muộn với thân phận một “nhà báo” đẳng cấp thấp (tiếng Miền Nam gọi là “quèn”) thì cách chi mà Huy Đức được ở gần các lãnh đạo đến độ “nghe” (nhưng không thể ghi âm làm bằng chứng) các lời đối thoại “động trời” giữa tất cả các vị ấy với nhau! Huy Đức đã cố tình “bôi bẩn” các vị ấy, mà vài điểm sau đây có thể dùng để khóa mõm Huy Đức, lôi hắn xềnh xệch từ chuồng ra ánh sáng văn minh của học thuật chân lý hàn lâm:

    b) Khi nói nhăng nói cuội về WTO, Huy Đức đã cố tình hay thực sự ngu dốt không biết rằng (a) đó không là nơi ai muốn vào thì vào, cứ nộp đơn là xong. Chỉ có sự kiên trì cùng mức độ hùng biện “trên cơ” cộng với sức khỏe tuyệt luân, các nhà đàm phán Việt Nam mới buộc được phía Mỹ phải chấp nhận trong cơn ngủ gà ngủ gật vì kiệt sức do đoàn Việt Nam “làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm”; và rằng (b) ngay cả Mỹ cũng nhanh tay nhanh chân viện trợ cho Campuchia và cơ quan Lao Động Liên Hiệp Quốc cũng nhanh tay nhanh chân trút viện trợ ào ạt cho Campuchia hầu giúp nước này đạt các chuẩn mực về lao động, từ đó có khả năng thu hút, hớt tay trên các hợp đồng may mặc béo bở với khối EU; nghĩa là tất cả đều ra tay nhằm ngăn chặn Việt Nam tồn tại, phát triển. Tất nhiên sau đó, Mỹ mới nhận ra cái ngu xuẩn triền miên của mình là Campuchia phản phúc nghiêng theo Trung Quốc chứ không phải Hoa Kỳ, và do đó làm suy yếu vai trò của Mỹ ở khối ASEAN.

    c) Khi nói nhăng nói cuội về sự yếu kém của Đảng Cộng Sản và Nhà Nước Việt Nam trong việc đề ra các chính sách kinh tế, Huy Đức đã rất dại dột lờ đi sự thật rằng (a) mấy chục năm nay bọn người Mỹ gốc Việt chống cộng đã luôn sủa về “vi phạm nhân quyền”, luôn kêu gọi “cấm vận Việt Nam”, luôn hô hào “tẩy chay kinh doanh với Việt Nam”, luôn tổ chức hết “đấu tranh võ trang phục quốc” tới “chuyển lửa về quê” và “diễn biến hòa bình”, hay “chuyển hóa” v.v. và v.v. nhằm lật đổ chế độ cộng sản Việt Nam; và (b) rằng một đất nước bị Mỹ cấm vận, bị bọn người ngợm gốc Việt chơi xấu tồi xấu tệ, thì nếu có khó ngóc đầu lên về kinh tế cũng là việc đương nhiên. Ấy vậy mà Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khiến thế giới phải “biết” về Việt Nam, điều mà không bất kỳ ai trong số các “nhân tài” của Việt Nam Cộng Hòa do Mỹ đào tạo và có học vị cao cấp của Mỹ có thể làm được điều tương tự cho các vị tổng thống của Việt Nam Cộng Hòa.

    d) Khi nói nhăng nói cuội về sự yếu kém của Đảng Cộng Sản và Nhà Nước Việt Nam trong việc lãnh đạo đất nước hay trong đề cử những người ra lãnh đạo Đảng và Nhà Nước, Huy Đức và những tên tương cận đã chưa biết gì về sự thật mà tôi sắp nhắc đến trong phần số 4 bên dưới.

    e) Khi nói nhăng nói cuội về sự yếu kém của Đảng Cộng Sản và Nhà Nước Việt Nam trong việc quản lý đất nước, Huy Đức và những tên tương cận đã dường như muốn “chưởi xéo” chính phủ Hoa Kỳ vì chính họ bất tài vô dụng khiến nước Mỹ lâm cảnh nợ nần, suy thoái kinh tế, đẻ ra “vách đá tài chính”, mất uy đối với thế giới, bị các nước Nam Mỹ thách thức, bị Trung Quốc dọa nạt, bị … cụ Lăng Tần nhạo báng bằng lời bất kính, bất trọng.

    (Trích từ blog của Nghị Hâm Hoàng Hữu Phước - Bạn nào muốn thư giãn click tiêu đề xem toàn bài)

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Bên Thắng Cuộc qua góc nhìn một thằng Hâmlúc 15:08 18 tháng 1, 2013

      f) Khi nói với giọng miệt thị về các vị Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam, Huy Đức và những tên tương cận đã cố tình lờ đi một sự thật mang tính chân lý tối thượng là chính các vị ấy (a) được chính phủ Mỹ tôn trọng và trân trọng; (b) được nguyên thủ tất cả các cường quốc kinh tế tôn trọng và trân trọng; (c) có tài duy trì ổn định chính trị, phá tan tất cả các kế hoạch ác tâm của tất cả các nhóm chống cộng; (d) có tài xây dựng kinh tế nước nhà vượt qua thành công cuộc cấm vận kinh tế tàn khốc của Mỹ để trở thành một thực thể đáng kính đến độ ASEAN phải thay đổi sách lược, mời Việt Nam gia nhập khối, cũng như khiến Thái Lan không cho phép bọn chống cộng được tiếp tục sử dụng lãnh thổ Thái Lan để lập căn cứ chống phá Việt Nam; (e) có tài bảo vệ đất nước trong đập tan nát tất cả các chuyến xâm nhập của bọn chống cộng và các cuộc xâm lược của ngoại bang như Trung Quốc và Campuchia; và (f) có tài đưa Việt Nam thành nước đảm nhận các vị trí quan trọng của các tổ chức quốc tế.(Hết trích)

      Thiên hạ nói về Hoàng Hữu Phước:
      HHP, chủ một công ty tư vấn quốc tế không cần biết tên gì đó ở Sài Gòn, nhưng lại “nổi tiếng” vì phản đối “Luật biểu tình” vì dân trí thấp!
      Người ta nói “không biết thì dựa cột mà nghe” như nhiều ông bà nghị gật khác , đằng này lại nổ quá trời để bị ném đá te tua và cũng bị đòi bãi miễn tư cách đại biểu quốc hội vì phát biểu vi hiến.
      Lâu nay không xem blog giao lưu của Hoàng Hữu Phước không biết ông ta có còn gọi chủ tịch nước Trương Tấn Sang là Tổng thống nữa không và có còn khen anh Tư nói hay không cần giấy tờ thư kí viết sẵn. Khen ông Sang ăn nói lưu loát tức cũng là chê các ông lãnh đạo khác chỉ biết đọc. Tội này là tội chia rẽ lãnh đạo, ca ngợi ông này nói xấu ông khác?
      Mong rằng từ nay đến khi hết nhiệm kì quốc hội khóa này, Nghị Phước đừng đăng đàn diễn thuyết nữa để được yên thân. Chưa kể nhân cách có vấn đề, đóng góp của ông nghị này cho sự nghiệp cách mạng của thành phố Hồ Chí Minh chả có điểm gì đáng “báo cáo thành tích“ cả.
      Không biết trong lúc nhân dân thành phố chiến đấu chống Mỹ xâm lược, trong lúc dân phải ăn bo bo trong thập niên 80 để chuẩn bị cho công cuộc đổi mới thì ông này ở đâu? làm gì?
      Ông Hoàng Hữu Phước, người đã từng hiến kế liên hoành cho nhà độc tài bị treo cổ Saddam Hussein, thì có chính kiến rõ ràng. Ông ta nói, dân trí nước ta còn thấp, chưa đội mũ bảo hiểm 100%, nên không thể cho ra đời luật biểu tình làm ách tắc giao thông, cản trở người đến bệnh viện sinh con!? Hoàng Hữu Phước chửi thẳng vào mặt dân rằng: “Tôi đã nghe mọi người chửi bới, thóa mạ những người đi biểu tình”. Và ông ta khẳng định “phần lớn người dân không đồng tình cho ra đời luật biểu tình”.
      Đại biểu Hoàng Hữu Phước đã nhổ toẹt vào cái quyền cơ bản của công dân, một trong những quyền mang tính đặc trưng của thể chế dân chủ, đã được Hiến pháp thừa nhận là quyến tối thượng phải được triển khai trong đời sống, mà trước đó không lâu, cũng tại nghị trường Quốc hội, Thủ tướng chính phủ tuyên bố cần phải có Luật biểu tình.
      Lời phát biểu ngạo mạn, khinh dân, phản hiến pháp, của Đại biểu Hoàng Hữu Phước dấy lên một làn sóng phẫn nộ của đồng bào cử tri trong và ngoài nước. Hàng chục bài báo đã lên tiếng phản đối, hàng trăm tin nhắn dồn dập gửi vào máy điện thoại di động của ông ta. Nhẽ ra Hoàng Hữu Phước phải nhẫn nhục chịu đựng và ngẫm nghĩ, xem mình có sai thì xin lỗi những người cầm lá phiếu bỏ cho mình, nhưng ông ta lại lấy cái quyền bất khả xâm phạm của Đại biểu Quốc hội, làm mình làm mẩy, ký giấy gửi khắp nơi, buộc Cơ quan an ninh điều tra Công an thành phố Hồ Chí Minh phải vào cuộc, ra quyết định khởi tố vụ án “khủng bố!”
      (Bài đã đăng trong Chân dung Nghị gật)

      Xóa
  11. Trong trại tù A-20 Xuân Phước, tôi bị nhốt chung với những thành phần bị nhà cầm quyền tiếp quản gọi là tư sản mại bản người Hoa có tầm cỡ như Lý Sen, Lưu Trung, Trương Dĩ Nhiên. Trước đó, khi còn bị tập trung ở trại Z-30C Hàm Tân, tôi cũng lại có sống gần một bạn đồng tù mà anh em chúng tôi thường gọi đùa là ông “rùa vàng”, tức cựu thượng nghị sĩ VNCH Hoàng Kim Quy, một thượng nghị sĩ thân chính phủ, nổi tiếng vì hai chuyện: mỗi lần ông Nguyễn Văn Thiệu gặp khủng hoảng chính trị thì phủ Tổng Thống lại lôi ông cùng với những thượng nghị sĩ thân chính phủ khác lên đài truyền thanh và truyền hình để ông nói vài lời bênh vực, thứ đến ông có một người con trai khét tiếng vung tiền trong những chốn ăn chơi tại Saigon.
    Bấy lâu nay, báo chí hay sách báo Việt ngữ tại quận Cam ít đề cập gì đến một sự kiện từng làm náo loạn đời sống của toàn bộ dân chúng Miền Nam Việt Nam là chiến dịch X-2 đánh tư sản mại bản, gian thương và cải tạo công thương nghiệp tư doanh. Phần lớn những bài báo hay những cuốn hồi ký chỉ chú trọng tới chuyện tù cải tạo và vượt biển. Khi tìm nguyên nhân khiến chính quyền VNCH thất bại, phần đông các tác giả chỉ có một lập luận: Miền Nam Việt Nam là một vùng đất tự do, dân chủ, quân đội VNCH là một quân đội hùng mạnh, thiện chiến, đánh đâu thắng đó nhưng cuối cùng VNCH thua trận vì bị Mỹ bỏ rơi, Dương Văn Minh lên nắm quyền có một ngày rưỡi và “dâng” Miền Nam Việt Nam cho Cộng Sản nên chúng ta mất phần đất từ vĩ tuyến 17 trở vào. Thật là giản dị và mọi người đều ngủ yên trên những lập luận này trong nhiều thập niên sau chiến tranh.

    Nhưng nếu người ta chịu khó tìm tòi ở trong cái kho tài liệu chiến tranh Việt Nam ở Lubbock (Texas), Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ, những tài liệu đã được công khai hóa của Văn Khố Quốc Gia Hoa Kỳ hay những cuốn băng và hàng chục ngàn trang tài liệu mật đã được bạch hóa, cuốn hồi ký tương đối đứng đắn nhan đề “Can trường trong chiến bại” (của Đô Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại), “Tháng Ba Gãy Súng” (Cao Xuân Huy), “Khi Đồng Minh Tháo Chạy” (Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng), các tài liệu mật của Ngũ Giác Đài (The Pentagon Papers của Beacon Press-Boston) một công trình tổng hợp những tài liệu thật về những quyết định của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, từng giúp giải thích lý do tại sao mà Hoa Kỳ quay lưng lại với đồng minh VNCH một cách cạn tầu ráo máng như vậy vào năm 1975... thì hiển nhiên, chúng ta sẽ có được những chứng cơ hậu thuẫn cho suy nghĩ riêng của mỗi người, tránh được những định kiến và dễ dãi với chính mình là đổ tất cả cho Mỹ.

    Nay có một tập hợp những tài liệu, các cuộc phỏng vấn và gặp gỡ nói chuyện với các nhân chứng của hai miền Nam Bắc lại xuất hiện ngay tại cái nôi của người tị nạn đề cập đến những biến chuyển tại Việt Nam, chủ yếu nhắm vào củng cố quyền lực của người Cộng Sản sau khi họ thắng trận. Theo cách nhìn của riêng tôi, thắng cuộc hay thắng trận chẳng có gì khác nhau cả. Nó cũng giống như một trận võ đài, một bên giơ cánh tay chiến thắng và một bên nằm lăn ra trên “ring” trọng tài đếm đến 10, vẫn không sao ngồi dậy được. Tôi cũng chỉ là một cá nhân rất nhỏ bé trong số những người thua trận và cũng rất muốn nói theo giọng điệu phủi tay, vuốt đuôi cho qua chuyện đồng thời cũng là phương thức tốt nhất để tránh bị mặc áo đội nón Cộng sản vốn bày bán đầy rẫy ở quận Cam nói riêng và trong những cộng đồng người Việt khác ở hải ngoại nói chung. Nhưng ở đời, lực bất tòng tâm, nhiều khi muốn mà không được vì mình đã lỡ theo đuổi cái nghề cầm bút, một nghề vốn bạc bẽo nhưng nó như ma túy, bập vào rồi khó bỏ được. Vì thế, khi đã đọc “Bên Thắng Cuộc”, tôi vẫn phải trình bày những suy nghĩ riêng của mình, suy nghĩ của một người đọc chứ không phải là một người làm tuyên truyền.
    (Click tiêu đề xem toàn bài)

    Trả lờiXóa
  12. Không "gấu ó" như một vài tờ báo cùng lề, báo Lao Động - đã nhẹ nhàng giới thiệu "Bên Thắng Cuộc" đến bạn đọc trong nước.
    Xem báo hoặc hình đây

    Trả lờiXóa
  13. Cuốn sách Bên Thắng Cuộc tạo được sự chú ý của cộng đồng gốc Việt khắp nơi, đặc biệt là tại Little Saigon, California. Sự chú ý dành cho cuốn sách không chỉ riêng ở độc giả. Nhiều nhà báo, biên tập viên, giám đốc chương trình, chủ đài TV, radio địa phương cũng đã liên lạc Người Việt để “bảo đảm có được sách một khi cuốn sách được chính thức phát hành.” Ða số đều bày tỏ sự tán thành với nội dung cuốn sách, và cho rằng nó “có lợi cho thế hệ trẻ không biết về cộng sản thì nay được biết sự thật mặt trái của cộng sản.”

    Trở lại với cuộc biểu tình trước tòa soạn Người Việt. Trong số những người được phỏng vấn, chỉ có ông Nguyễn Tấn Lạc, trong vai trò điều hợp viên của Ủy Ban Vận Ðộng cho tự do tôn giáo và nhân quyền của Việt Nam, cho biết “có đọc quyển sách này.”

    Nhận xét về Bên Thắng Cuộc, ông Lạc nêu ý kiến, “Tôi thấy quyển sách có nhiều điều Huy Ðức viết mà tôi chưa biết. Riêng với những điều tôi biết thì Huy Ðức viết cũng tốt, có nhiều điều viết được, nhưng cũng có những cái viết không đúng, không được, nên đó là lý do vì sao cộng đồng phản ứng như vậy.”
    “Nhiều người đọc những điều Huy Ðức viết chưa được thì họ cho rằng ông ta tuyên truyền cho cộng sản thì họ phản ứng, điều đó bình thường.” Ông Lạc nói tiếp.

    Suy nghĩ về việc vì sao quyển sách này bị phản ứng kịch liệt từ trong nước lẫn cộng đồng hải ngoại, ông Nguyễn Tấn Lạc phát biểu, “Tôi nghĩ đó là một phản ứng bình thường vì bên phía Cộng Sản cũng không đồng tình với những gì mà anh Huy Ðức viết ra, vì nó cũng làm xấu đi hình ảnh của những người bên đảng Cộng sản nên họ có phản ứng như thế.”
    (Click tiêu đề xem toàn bài)

    Trả lờiXóa
  14. Từng là đồng nghiệp với nhau lúc ở Tuổi Trẻ, Huy Đức hẳn đã nghe, đã hiểu rõ trường hợp của tôi, kể cả mối quan hệ của cha con tôi. Huy Đức cũng từng ghé nhà ba má tôi ở Hà Nội, khi tôi đang ở đấy. Thật đáng tiếc, Huy Đức đã sử dụng một số thông tin từ những gì anh nghe, từ những gì tôi viết, nhưng anh lại không trích dẫn đầy đủ. Vì thế đã làm cho người đọc ngộ nhận và làm thương tổn tôi cùng gia đình.
    Anh viết về thời gian tôi đi “học tập cải tạo” như sau (nguyên văn): “Chỉ huy trại khi ấy cũng biết Lưu Đình Triều là con cán bộ cao cấp nên chủ động gửi thư cho ông Lưu Quý Kỳ, nói: “Chúng tôi biết anh, nếu được, anh lên trại chúng ta nói chuyện về cháu”. Ông Lưu Quý Kỳ có lên nhưng thay vì gặp con và bảo lãnh, ông chỉ viết thư khuyên con “cố gắng học tập tốt”. Lưu Đình Triều nhớ lại: Tôi vừa đọc thư ba tôi vừa xé và vừa cay đắng khóc...”.
    Nếu trung thực và làm hết trách nhiệm của một nhà báo thì đoạn viết trên của Huy Đức không chỉ dừng ở đó mà phải “xử lý” đầy đủ thông tin. Như tôi từng kể trong tuần báo Thế Giới & Hội Nhập 27-4 và 4-5-2010) “lúc ấy: “Tôi giận, thầm trách ba tôi đã không thương tôi, lại bỏ tôi “bơ vơ” như thuở nào... Tôi đã xé lá thư ấy để rồi mãi sau này mới cảm nhận ra rằng đó là một cách thương con, rèn con của riêng ba tôi”. Khi nhắc lại chi tiết này một cách lấp lửng, rõ ràng nhằm đạt mục đích gì thì chính Huy Đức biết rõ hơn ai hết.
    Đã thế, sau khi trích đoạn tôi viết về những giờ phút đầu tiên cha con gặp lại, Huy Đức tự rút ra một kết luận chắc như đinh đóng cột (nguyên văn): “Nhưng trong ngày gặp lại, Lưu Đình Triều đã cảm nhận được “hố sâu ngăn cách”. Có thật sự đúng như vậy không? Ngay trong chính bài viết của tôi mà Huy Đức trích lại (Cuộc chia ly cho ngày thống nhất, kỳ II: Cuộc đoàn tụ một nửa, Tuổi Trẻ 3-12-2004), tôi đã kể rằng sau đó tôi xuống ở với ba tôi mấy ngày liền. Trong thời gian này, cha con đã nằm bên nhau tâm sự, để rồi tôi nhớ mãi lời khuyên nhủ của một người cha thương yêu và gửi gắm hi vọng vào con: Thôi, thương ba, thương má, từ rày về sau con cố ra sức học tập, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức lối sống, chuộc lại lỗi lầm...
    Vâng, sự trích đoạn tới đâu là quyền chủ quan của người viết, nhưng nếu trung thực và để đúng bản chất sự việc thì Huy Đức không thể “cắt cúp” theo chủ kiến của mình mà bỏ qua ý trong đoạn kết của bài viết, ghi nhận tâm trạng của tôi - một thiếu úy chế độ cũ phải đi học tập cải tạo vào lúc ấy: “Dẫu sao mặc lòng, tôi tự nhủ mình cần phải thẳng thắn đối mặt với thực tế khi bước vào khúc quanh của đời mình dù có bằng bước chân cô đơn. Cái cảm giác cô đơn ấy, mãi đến hai năm sau tôi mới thật sự giũ bỏ khi ngồi quây quần vui vẻ với cả nhà, có cả Thu Hà vừa đi học ở Bulgaria trở về. Sâu xa hơn là sự đoàn tụ toàn vẹn như lời thư ba viết mà tôi đã dần cảm nhận ra sau đó và tự gọi tên theo cách của tôi: Sự đoàn tụ phần hồn. Đó là một tối tháng 8-1978, cả người tôi nổi đầy gai ốc khi đưa tay thề nguyện dưới lá cờ Đoàn. Vâng, tôi đã đặt được bước chân đầu tiên của mình lên dấu chân mà ba má tôi đã đi”.
    Huy Đức à! “Một nửa cái bánh mì vẫn là cái bánh mì, nhưng một nửa sự thật không phải là sự thật”. Tôi tin Huy Đức cũng biết điều này. Thế nhưng, với tôi (và còn ai nữa?) tại sao anh lại “va vấp” một cách đáng tiếc như thế? Và chính vì vậy, tôi phải nói với anh rằng không có hố sâu thực sự, không hề có!
    (Click tiêu đề xem toàn bài)

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Giao ban báo chí mới đây, trên anh Đinh tặc đã chỉ thị không nói về Bên thắng cuộc nữa. Lý do, là [làm vậy như] quảng cáo không công cho Huy Đức. Quan trọng hơn, đây là cuốn sách đồ sộ về tư liệu, lần đầu tiên và khá đầy đủ, góp phần lột rõ bộ mặt của chế độ, cả trong quá khứ tàn bạo về hành xử, u mê về chủ thuyết, cho tới chuyện ”đánh cắp lịch sử”. [Ở] Trên các ảnh sợ là phải! Bài anh Triều có lẽ là bài cuối của “lề phải” về cuốn BTC?

      Riêng với anh Triều, xin góp với anh vài ý sau:

      Cách đây khoảng 30 năm, tôi đã đọc cuốn”Nước về biển cả”của bố anh, dày cỡ 3-500 trang, in bằng giấy tốt, bìa đẹp, trong hoàn cảnh lúc đó rất khó khăn, rõ ràng có sự ưu ái, vì đó là sách ca ngợi HCM. Nay được biết ông là cán bộ tuyên huấn”gộc”, mới hiểu vì sao ban đầu ông cư xử với anh như thế. Đó là vì, gộc thế, chứ gộc nữa mà can thiệp lộ liễu cho anh, là ông bị”tổ chức ”pằng pằng” ngay. Vì không hiểu thâm ý của cụ, anh đã có lúc oán trách ”oan” ông. Thực tế, là thiếu uý VNCH, anh chỉ đi cải tạo có 2 năm, không hề bị ngược đãi, sau đó và đến nay, anh đang ở vị trí mà khối người đã cống hiến cho đảng cộng sản hơn anh nhiều, phải đứng từ xa mà nuốt nước miếng, anh chắc hết oán bố mình rồi?

      Ông thân sinh anh đã can thiệp, nhưng khéo léo hơn đám tướng tá VNCH nhiều. Có như vậy ông mới tồn tại và anh mới có ngày nay, anh Triều ạ.

      Cái hố sâu rõ ràng là có, nhưng vì điều kiện riêng trong đó chắc chắn có lợi thế của bố anh, mà 2 bố con anh đã lấp lại đươc. Còn hàng vạn gia đình khác, thì nó là mãi mãi không thể đầy! Không tin, anh hỏi những nạn nhân cải cách ruộng đất thôi cũng đủ biết.

      Anh có cảm giác đau đớn khi Huy Đức nhắc đến bố anh, mặc dù ông lúc sống thì được ưu đãi, khi mất trong (trường hợp bình thường) được đảng lo cho tang lễ trang trọng chứ không phải chết mất xác do vượt biên, do bị tra tấn, hành hạ trong các trại cải tạo và nhà tù CS. Vậy thì, với những nạn nhân của “Giải phóng”, anh có cho rằng họ cũng có tâm trạng đau đớn tương tự anh, thậm chí còn hận thù với những gì cộng sản đã gây ra cho người thân của họ sau ngày 30-4-1975 khi nhắc đến cái chết của người thân của họ?

      Theo tôi, anh nên im lặng. Vừa được tiếng là chấp hành chỉ thị, vừa đỡ bị nguyền rủa.

      Về cái “HỐ SÂU”, còn cái tư tưởng chỉ đạo sắt máu, u mê cộng sản như đã diễn ra trong quá khứ và hiện tại, thì chừng đó, chẳng riêng gì anh hay tờ Tuổi trẻ, mà cả bộ máy tuyên truyền khổng lồ của chế độ cũng chẳng làm được cho nó đầy lại như bố con anh. Sao vậy? Vì bố con anh còn có tình huyết nhục mà che chở cho nhau, ngược lại, người cộng sản nó chỉ bảo vệ cái Chủ nghĩa xã hội thôi, nó-lũ phản bội CS-làm gì có nghĩa đồng bào!

      Xóa
  15. Có cuốn Quyền Bính trong tay, đọc khoảng 50 trang đầu, tôi đành phone vào hãng cáo bệnh, ngồi nhà đọc một mạch cho đến trang cuối cùng. Việc mổ xẻ các nhân vật và sự kiện trong đó cần nhiều thời gian và công sức. Bài viết này chỉ là những cảm nhận ban đầu.

    Câu cuối cùng của Lời mở đầu trong Quyền Bính viết: “Hệ thống chính trị trải qua nhiều thế hệ, càng về sau lại càng ít có khả năng khắc phục sai lầm.” Phải chăng đây là một luận đề, mà tác giả đã dùng phần còn lại của cuốn sách để chứng minh.

    Đại Hội
    Câu chuyện thường bắt đầu từ Đại hội Đảng. Đại hội đẻ ra Bộ chính trị và Tổng bí thư. Bộ chính trị và Tổng bí thư lại đẻ ra chính sách. Trong chuỗi mắt xích này, quyền bính được sử dụng triệt để nhằm thao túng chính trường ở những cung bậc khác nhau.

    Trước Đại hội VI, Lê Duẩn chết, Lê Đức Thọ muốn giành lấy vị trí này. Nhưng Lê Duẩn chỉ đích danh Trường Chinh thay mình. Ông Thọ đã sử dụng quyền bính tuyệt đối của trưởng ban nhân sự Đại hôi để giành ghế. Không được, ông rút lá bài cuối cùng: không ăn được thì đạp đổ. Trường Chinh đã bị ông Thọ ép phải rút lui chỉ vài giờ trước khi Đại hội VI khai mạc.

    Ở một hoàn cảnh khác, quyền bính được sử dụng thành bản án để tiêu diệt đối phương. Vụ Sáu Sứ là một điển hình. Phần vì ghen tức với uy tín của Võ Nguyên Giáp và Trần Văn Trà, phần vì sợ hai ông này trở lại chính trường, hai tướng Lê Đức Anh và Đoàn Khuê dùng Vũ Chính cùng con rể Nguyễn Chí Vịnh ở tồng cục II dựng lên vụ “âm mưu lật đổ” do tướng Giáp cầm đầu.

    May mắn cho tướng Giáp, vụ án được giao cho thứ trưởng công an Võ Viết Thanh là một người tử tế. Ông Thanh lật án, không theo ý kiến chỉ đạo. Lập tức Võ Viết Thanh bị trả đũa. Sự nghiệp chính trị của ông Thanh chấm dứt, thanh danh cá nhân và gia đình bị bôi nhọ. Ông Thanh tâm sự “Trong cặp tôi lúc đó có một khẩu súng, tôi đã định kéo khóa rút súng ra bắn chết cả ba ông rồi tự sát.” (Ba ông là Đoàn Khuê, tổng tham mưu trưởng, Võ chí Công, chủ tịch nước, và Nguyễn Đức Tâm, trưởng ban tổ chức trung ương)

    Từ Đại hội Đảng VI năm 1986 đến Đại hội XI năm 2011 là 25 năm với 6 kỳ Đại hội. Càng về sau, Đại hội càng lộn xộn. Cứ trước Đại hội, là có nhiều kỳ án, nhiều tin đồn úp úp mở mở làm xôn xao chính trường. Đại hội sau nhiều án hơn Đại hội trước và mức độ khốc liệt của nó cũng tăng. Những cảnh hạ bệ, thanh toán nhau rất ngoạn mục được trình bày một cách bình tĩnh, rõ ràng và đầy sức thuyết phục.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Hy vọng có thêm 2 Huy Đức nữalúc 15:27 22 tháng 1, 2013

      Nhân Sự
      Nếu Đại hội Đảng là mẹ, thì Bộ chính trị là con. Trong Bộ chính trị thì Tổng bí thư là con trưởng, các ủy viên là những đứa con thứ. Mẹ mang bệnh di truyền từ trong nhiễm sắc thể, thì lũ con làm sao tránh khỏi căn bệnh trầm kha.

      Trường Chinh được mô tả như là kiến trúc sư của Đổi mới. Ông đoạn tuyệt với quan liêu bao cấp. Ông tập hợp những trợ lý giỏi, tận tụy và nhiệt thành với công việc, mang lại chút hy vọng vào những năm cuối thập kỷ 80. Nhưng âu cũng là số phận. Ông phải “tự” rút. Dân tộc lại trở về với cảnh lầm than.

      Nguyễn Văn Linh, kế vị Trường Chinh, bộc lộ ra là một con người thủ đoạn, hẹp hòi, thù vặt, thành kiến, và bảo thủ. Bạn đọc khá dễ dàng tìm được câu trả lời tại sao ông Linh đã trở thành một sát thủ lạnh lùng với Trần Xuân Bách.

      Ông Đồng và ông Thọ đưa ông Linh vào ghế Tổng bí thư. Ông Bách phản đối vì ông Linh chẳng có trình độ gì. Khi ông Linh đã thành Tổng bí thư rồi, ông Bách vẫn coi thường ông Linh ra mặt. Cuộc chiến Linh – Bách bắt đầu như vậy.

      Rồi ông Linh đánh hơi được là ông Bách sẽ thay mình vào giữa nhiệm kỳ. Thế là ông Linh liên minh với cánh bảo thủ giáo điều Bắc kỳ. Những ngón đòn hiểm nhất được tung ra diệt Trần Xuân Bách không tiếc thương để trừ hậu họa.

      Ông Linh còn lập ra nhiều kỳ án để vặt lông bẻ cánh, thậm chí còn muốn cắt tiết Võ Văn Kiệt. Bề ngoài ông Linh lại đóng vai cấp tiến làm mọi người cứ tưởng ông Linh là cánh đổi mới cùng phe với ông Kiệt từ miền Nam ra. Cuộc đọ sức Linh – Kiêt đầy kịch tính và kéo dài đến những năm khi ông Linh đã về hưu.

      Đến đời Tổng bí thư Lê Khả Phiêu, di sản đồ sộ của ông để lại cho đất nước là hoán chuyển cán bộ. Những đồng hương Thanh Hóa của ông được cơ cấu, còn những ai không cùng cánh bị đẩy ra.

      Tới Tổng bí thư Nông Đức Mạnh thì phó ban tổ chức Trung ương cũng phải thốt lên: “Tôi thật xấu hổ vì Đảng ta có một tổng bí thư như vậy”. Thủ tướng Phan Văn Khải nhận định: “Ông Mạnh trình độ yếu lại thiếu bản lĩnh nên gần như không tác dụng gì”. Chính ông Mạnh cũng tự nhận: “Em biết thân phận em rồi, người dân tộc chỉ có thể làm đến thế.”

      Ông Mạnh tự biết khả năng của mình, nhưng người ta cứ giao cho ông chức Tổng bí thư. Ông Mạnh đã trở thành ông bình vôi không hơn không kém. Quyền bính càng dễ bị khuynh loát bởi những bóng ma sau hậu trường. Nhóm Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Văn Hưởng, Lê Hồng Anh ra đời trong hoàn cảnh này.

      Trong Quyền Bính tác giả có dẫn lời Nguyễn Văn An, ủy viên Bộ chính trị, trưởng ban tổ chức Trung ương: “Ngay từ Đại hội VI chọn ông Nguyễn Văn Linh đã không đúng, Ông ấy không phải là người đổi mới. Ông Linh chọn ông Đỗ Mười cũng không đúng. Ông Mười chọn Lê Khả Phiêu cũng không đúng. Đến khi chọn Nông Đức Mạnh thì sai”

      “Không đúng” đồng nghĩa với “Sai”. Nhưng ông An phải dùng từ sai để nhấn mạnh căn bệnh đã vào giai đọan cuối. Nếu mang tài năng và đạo đức của các Tổng bí thư biểu diễn trên đồ thị, thì đó là đồ thị của một hàm số nghịch. Thời gian càng tăng thì đạo đức và tài năng của các vị càng giảm.

      Xóa
    2. Hy vọng có thêm 2 Huy Đức nữalúc 15:29 22 tháng 1, 2013

      Đối Ngoại
      Tổng bí thư và Bộ chính trị làm ra và điểu hành chính sách. Vậy, bạn đọc tự đoán ra kết quả. Những nhân sự bệnh hoạn trên không thể sinh ra những chính sách đúng, tất nhiên càng không thể điều hành quốc gia hội nhập vào quỹ đạo của nhân loại.

      Nhận thức của cán bộ cao cấp cũng rất thảm hại. Ông Nguyễn Đức Bình tuyên bố “Toàn cầu chỉ mang lại đói nghèo” còn Nguyễn Phú Trọng thì bảo “đó là diễn biến hòa bình”.

      Khi Bill Cliton đến thăm Việt Nam, vô tình hay cố ý, mà thời gian ông đặt chân đến Hà Nội và Sài Gòn đều vào lúc nửa đêm. Bộ chính trị chỉ đạo không ai được cười khi tiếp Bill Cliton. Quyền Bính mô tả: Một trợ lý nhắc Thủ tướng: “Người ta đã sang tận đây, tiếc gì anh không nở một nụ cười với họ”. Thủ tướng Phan Văn Khải trả lời: “Không được đâu mày ơi, Bộ chính trị đã thống nhất là không được cười”.

      Khi Bill Clinton đến thăm Đại học Quốc gia Hà Nội, sinh viên được quy định khi nào thì được đứng lên, khi nào thì được vỗ tay.

      Đón nguyên thủ vào lúc nửa đêm và nền ngoại giao cấm cười ra đời ở xứ ta. Cũng không biết nên cười hay mếu khi đọc những dòng này trong Quyền Bính.

      Đường lối ngoại giao với Trung Quốc được thể hiện qua cuộc gặp của Lê Khả Phiêu với Giang Trạch Dân. Cuộc gặp diễn ra không theo nghi thức của Đảng hay Nhà nước một cách công khai, mà lén lút, khuất tất theo đường tình báo.

      Chuyến đi gồm bốn vị Lê Khả Phiểu, Trần Đình Hoan, Nguyễn Mạnh Cầm và Nguyễn Chí Vịnh. Nhưng phút chót, Trung Quốc lại ngăn không cho ông Cầm và ông Hoan vào phòng họp, chỉ riêng ông Phiêu và Vịnh được vào. Ông Phiêu thú nhận đã thoả thuận đàm phán song phương vấn đề biển đảo với Trung Quốc.

      Chuyện mất đất, mất biển với Trung Quốc là có thiệt. Quyển Bính đã trình bày ngọn nguồn của câu chuyện. Nếu không mất đất, tại sao Đảng lại phải giấu dân? Tại sao lại không công khai nội dung và kết quả đã ký?

      Khi biết Việt Nam sắp ký Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ, các ủy viên Bộ chính trị nhận được bức điện tối mật từ Tổng cục II: “Trung Quốc sẽ phản ứng rất xấu nếu ký với Mỹ”.

      Đọc đến đây, thú thật tôi phải chửi thề vì quá đau lòng trước những cơ hội đã mất. Tao buôn bán với Mỹ thì mặc mẹ tao, hề hấn gì đến mày mà mày phải phản ứng xấu. Mày lấy tư cách gì mà chúi mũi vào ống khóa nhà tao. Mày phản ứng xấu thì làm đéo gì được tao. Tôi cũng đắng cay tự hỏi: Ai là người để Trung Quốc làm việc đó? Sao các ngài phải sợ cái thằng hàng xóm to xác mà thối bụng đến vậy? Hèn quá. Nhục quá.

      Đối Nội
      Về đường lối kinh tế và đối nội, Quyền Bính trích dẫn lời ông Đào Duy Tùng: “Kinh tế phải phục tùng chính trị”. Một mệnh lệnh tuyệt cú mèo, xứng tầm ủy viên Bộ chính trị.

      Ở Việt Nam chưa hề có đổi mới chính trị, thì làm sao có đổi mới kinh tế. Công cuộc “Đổi mới”của Đảng từ năm 1986 thực ra chỉ nửa vời, nếu không nói là giả tạo, hay nói cho chính xác là một thằng xây nhưng chín thằng phá.

      Một nhóm nhỏ người giàu lên là do chộp giựt. Xã hội chưa hình thành một tầng lớp trung lưu thực sự và bền vững. Sức lao động và sự sáng tạo chưa được giải phóng. Vòng kim cô về chủ nghĩa xã hội vẫn đang siết chặt trên đầu. Chệch đường lối thì không vào tù cũng thân bại danh liệt. Khác phe cánh thì không bị cưỡng chế cũng bị thanh tra.

      Thiết tưởng, không cần phải bàn thêm gì nữa. Hậu quả đã nhãn tiền. Nền kinh tế và xã hội Việt Nam hôm nay đang là đêm hôm trước của ngày phá sản.

      Xóa
    3. Hy vọng có thêm 2 Huy Đức nữalúc 15:32 22 tháng 1, 2013

      Nụ Cười và Nước Mắt
      Bên cạnh những câu chuyện khô khan về đường lối đối kinh tế, Quyển Bính, thảng hoặc, mang lại cho bạn đọc những nụ cười.

      Ông Lê Duẩn bảo các chị phụ nữ rằng sao các chị nghe vậy mà không “vả vào miệng” những người nói. Tôi khoái lối nói dân dã của ông, y chang như mấy bà ngoài chợ Đồng Xuân. Ông Đỗ Mười tiếp các nhà báo trong khi quên cài khóa cửa quần. Ông Đoàn Khuê thì vén áo cho Đỗ Mười sờ bụng rồi khoe rằng khối ung thư trong bụng đã tan, ông đủ sức khoẻ đảm nhiệm Chủ tịch nước. Lối xưng hô suồng sã “Mày, Tao” của các vị Tổng, Thủ, Chủ, cũng mang lại nụ cười tủm tỉm.

      Rồi người đọc cũng bắt gặp câu chuyện cảm động về số phận của đứa con rơi lưu lạc Phan Thanh Nam.

      Bà Hồ Thị Minh, 20 tuổi, con gái miền Nam, nhan sắc mặn mòi, từng làm chủ bút một tờ báo, từng dự hội nghị bên Pháp, biết nhiều ngoại ngữ, được gởi ra Bắc để giúp việc cho Bác Hồ. Chưa kịp giúp Bác, vì Bác đã trên 60 tuổi, thì gặp Võ Văn Kiệt đi dự Đại hội Đảng II, năm 1951.

      Hai tâm hồn Nam bộ phóng khoáng mà cô đơn giữa núi rừng Việt Bắc hoang vu gặp nhau, kết quả là thằng con Phan Thanh Nam ra đời. Hơn năm sau, ông Kiệt phải về Nam. Trung ương Đảng giao thằng con trai ông Kiệt cho ông Cái ở Tổng cục Lương thực. Tổng cục Lương thực nhưng có lẽ vì thiếu lương thực không nuôi nổi cháu bé sơ sinh, thằng bé phải nằm lại bơ vơ bên bờ suối. Người làng Tăng Xá, xã Tuy Lập, huyện Cẩm Khê, Phú Thọ lượm được mang về.

      Bà Trần Kim Anh, vợ chính thức của ông Kiệt, và hai đứa con thơ, trúng bom, cùng chết mất tích trên sông Sài Gòn (lưu ý rằng bà Kim Anh là con gái một địa chủ ở miền Tây, không là Đảng viên, không nằm vùng, không tham gia vào bất kỳ hoạt động nào của chồng, không có chính kiến chính trị). Võ Dũng con trai duy nhất còn lại cùa ông Kiệt và bà Anh, đi tập kết nghe tin mẹ và em chết, quyết về Nam để trả thù cho mẹ, chưa kịp trả thù, thì hy sinh khi đang bò qua hàng rào kẽm gai trinh sát.

      Cũng khoảng thời gian đó, Phan Thanh Nam, vượt Trường sơn vào Nam tìm người cha ruột.

      Gia đình ông Kiệt gần như xoá sổ. Bạn đọc nhận ra sự khốc liêt và tàn bạo của chiến tranh. Cái giá phải trả của mỗi gia đình Việt Nam nói chung, và gia đình ông Kiệt nói riêng là quá đắt. Chúng ta có quyền chất vấn ai đã đưa đẩy chúng ta đến cảnh nhồi da sáo thịt này. Có cần thiết một cuộc chiến huynh đệ tương tàn như vậy hay không. Có con đường nào để thống nhất Việt Nam mà không cần đến súng đạn hay không.

      Người đọc cũng bắt gặp cảnh các đồng chí đối xử với nhau rất nhẫn tâm qua hình ảnh bà Trần Thị Đức Thịnh, vợ ông Bách. Khi ông Bách thất sủng, bà Thịnh bị đẩy ra vỉa hè giữ xe gắn máy. Bà phải trùm khăn để không ai thấy mặt, đi rửa chén, áp tải xe chở sắt qua đêm để lấy tiền nuôi chồng con. Trung ương đã quỵt tiền lương của ông Bách. Cay đắng thay là ông Bách lại không biết, cứ tưởng vợ vẫn được Đảng trọng dụng, và Trung ương vẫn trả lương cho mình.

      Hy Vọng
      Quyền Bính giống nhữ một cỗ máy CT scan. Nó chỉ cung cấp những lát cắt hình ảnh của khối u trong cơ thể. Để nhận biết những hình ảnh này là tế bào dữ hay lành, tùy thuộc vào kiến thức và kinh nghiệm người đọc. Tác giả Huy Đức đã không làm thay cho chúng ta việc đó. Hình như đó là dụng ý. Anh không “định hướng” bạn đọc như báo chí của Đảng đang làm.

      Chữ “Hết” ở trang cuối của Quyền Bính đã hiện ra, nhưng tôi vẫn không tin vào mắt mình. Cảm ơn Huy Đức đã cho chúng ta một cơ hội ôn lại và suy ngẫm về những biến cố đã xảy ra trong đời mình. Cảm ơn anh về sự lao động nghiêm túc, kiên cường và công phu. Anh là người mở đường cho sự thực trở về, bất chấp sự che đậy, ngụy tạo của những người nắm quyền bính.

      Nhà báo lão thành Bùi Tín nói Bên Thắng Cuộc đã đưa ra 1/3 sự thực. Nếu vậy, Việt Nam cần thêm hai người như Huy Đức nữa, thì sự thực sẽ được trả về đúng vị trí của nó. Chúng ta có quyền hy vọng.

      19 tháng Giêng 2013
      Trần Hồng Tâm

      Xóa
  16. Trong bài viết Vài suy nghĩ về Bên Thắng Cuộc của Huy Đức, ông Vũ Ánh viết:
    “Làm sao có ai trả lời được câu hỏi nếu như Miền Nam là bên thắng cuộc thì liệu sự trả thù có diễn ra với bên thua cuộc là miền Bắc hay không?“
    Tôi nghĩ là tôi trả lời được câu hỏi của ông Vũ Ánh qua nhận thức, phán đoán và suy lý không phải một cách chủ quan, theo tình cảm, mà một cách khách quan, theo khoa học...
    Văn hoá Miền Nam là một nền văn hoá có căn bản nhân bản. Chủ nghĩa nhân bản tin vào con người, hướng con người đến mục đích mưu cầu hạnh phúc vật chất và tinh thần mà không xúc phạm nhân phẩm...
    Chủ nghĩa nhân bản đó thấm đẫm nền văn hoá Miền Nam quốc gia, con người Miền Nam quốc gia hô hấp bầu khí quyển chân lý đạo đức do nó cung cấp,suy nghĩ hành động theo tư duy lý luận của nó. Khác hẳn và ngược hẳn với chủ nghĩa cộng sản của Miền Bắc trước 1975.
    Việt Nam Cộng Hoà tuy là một xã hội có nhiều khuyết điểm nhưng vẫn là một xã hội chủ yếu xây dựng trên tinh thần nhân bản. Bởi thế tự thân cơ cấu nó có những đối lực, đối trọng; môi trường nội thể nó có những máy hãm, chất cản. Để khiến cho nó chẳng thể nào có những trại giam tàn bạo hơn trại tập trung cải tạo cộng sản. Những đối lực, đối trọng, những máy hãm, chất cản, trong trường hợp chúng ta đang bàn, là dư luận báo chí quốc nội và quốc ngoại, là thành phần đối lập và chống báng. Nếu Miền Nam mà đày đọa người cộng sản thất trận như người cộng sản đã đày đọa người Miền Nam thất trận – chỉ như thôi, đừng nói hơn – là các ông Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan với các tờ báo Đối diện, Đứng dậy; các bà Kiều Mộng Thu, Ngô Bá Thành, ni sư Huỳnh Liên, ông nhà văn Vũ Hạnh, bà nhà văn Minh Quân; các tổ chức “tranh đấu đòi cải thiện chế độ lao tù“, các phe nhóm “phản đối chế độ chuồng cọp“ và hàng hàng lớp lớp những thành phần phóng viên, ký giả Mỹ, Pháp, Anh, Đức, Úc, Phi, Nhật cùng với những trí thức chuyên gia “tiến bộ“ à la Erich Wulff, à la André Menras alias Hồ Cương Quyết v.v.. và v.v.. sẽ nhao nhao lên tố cáo, biểu tình, xuống đường, tuần hành, đốt xe hơi, đánh cảnh sát, hô khẩu hiệu, nằm vạ trước thềm Quốc hội, chiếm đóng trụ sở Đại học, lại v.v..và v.v.. Miền Nam từ bản chất không thể nào làm được như ông Vũ Ánh vò đầu suy nghĩ.
    (Click tiêu đề xem toàn bài)

    Trả lờiXóa
  17. ... tôi cũng thấy phản ứng có hai chiều, chiều khen cũng có mà chiều chê cũng có. Mà phổ biến của chiều chê là gì, là tính phiến diện. Tính phiến diện, tôi nghĩ rất là đương nhiên thôi bởi vì là một vấn đề lớn như thế không thể nào mà dùng những cái nhân chứng cụ thể mà có thể khái quát được ngay trong một tác phẩm đầu tiên như vậy. Và vì thế tôi nghe không những chỉ trên báo chí ở trong nước thì nói rằng đây là một cuốn sách mà đề cập những vấn đề nhìn nhận rất là phiến diện. Và ngay cả một số nhân chứng lịch sử mà can dự ở đây đứng ở góc độ phía bên kia cũng nói rằng là … cũng chưa nói hết được những điều cần nói.

    Trong khi đó giới viết sử ở hải ngoại, ta cứ tạm gọi theo cách nói về địa lý như thế thì do nhiều hoàn cảnh chính trị khác nhau thì thường viết có vẻ cực đoan hơn. Cho nên là cái cách viết phần nào đó giữ được một cái khách quan, tất nhiên khách quan là hết sức tương đối thôi. Và cũng cố gắng gửi gắm vào đó một cái thiện chí nào đó, nhưng mà chia sẻ được sự thông cảm được tất cả là rất khó.

    Nhưng dẫu sao cái hiệu ứng quan trọng nhất đối với chúng tôi khi đọc cái này, nhất là những người làm nghề như chúng tôi là lịch sử là một cái hiện thực, không thể che đậy được, nó có thể bị quên lãng lúc này hoặc là bị ít quan tâm đến nhưng chắc chắn là nó vẫn tồn tại trong ký ức, trong cái trải nghiệm của rất nhiều con người. Và nếu chúng ta không có một ý thức dám nhìn thẳng vào sự thật để nhìn nhận nó trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nó, phân tích để rút ra những bài học tốt, bài học không tốt, bài học xấu thì chúng ta luôn luôn có nợ với lịch sử. Và lịch sử thường nó sẽ xuất hiện vào những khúc quanh. Chúng ta nhìn thấy những biến động chính trị lớn trên thế giới có sự kiện nào mà không gắn với vấn đề lịch sử đâu. Vì thế nó cũng đánh thức những người có trách nhiệm là nên nhìn vào những vấn đề rất là phức tạp, rất là phong phú của cái lịch sử Việt Nam hiện đại trải qua thời gian chưa dài nhưng phải nói còn bề bộn những công việc mà còn chưa được nhìn nhận một cách thấu đáo...
    Tôi rất là tin cậy anh Huy Đức với tư cách anh là một nhà báo mà tôi quen biết nhưng mà khi đã đưa vào một cuốn sách mang tính chất lịch sử như cuốn sách này thì cái sự thận trọng về việc sử dụng tư liệu tôi cho là hết sức quan trọng, nhất là bản quyền đối với những cái lời trả lời phỏng vấn ấy. Tôi nghĩ ngay ở Việt Nam thôi, ai phỏng vấn tôi sau đó theo đúng luật là anh phải ghi chép như thế nào chuyển lại cho tôi đọc, tôi đồng ý thì mới được công bố. Đấy là nguyên tắc thôi, còn trong thực tế có những mối quan hệ tin cậy lẫn nhau thì chắc không phải đi qua khâu ấy nhưng về nguyên tắc thì phải là như thế. Cho nên là tôi nghĩ rằng đây chúng ta cố gắng ghi nhận những nỗ lực của anh Huy Đức thôi, nhưng đừng tuyệt đối hóa đó là sự thật. Mà quan trọng là làm cho mọi người quan tâm đến nó và tiếp cận nó một cách rất là nghiêm túc và cùng với thời gian tôi nghĩ là chúng ta sẽ tiếp cận gần nhất cái sự thật mà chúng ta mong muốn không phải là với ý thức phê phán quá khứ mà quan trọng nhất là tìm ra bài học tốt cho hiện tại và tương lai.
    DƯƠNG TRUNG QUỐC
    TTK Hội Khoa học Lịch sử VN
    (Click tiêu đề xem toàn bài)

    Trả lờiXóa
  18. Đọc xong bộ sách tôi thấy những thông điệp sau đây lắng đọng trong tôi:
    1.- Đó là một chế độ độc tài và toàn trị. Người cộng sản nói rằng chế độ do họ dựng lên là dân chủ tập trung. Nhưng trong thực tế chúng ta thấy rằng chẳng có gì là dân chủ trong chế độ cộng sản. Tất cả các chính sách đều do một nhóm người trong Bộ chính trị quyết định. Nhưng qua Bên thắng cuộc, chúng ta còn biết rằng rất nhiều chính sách có ảnh hưởng đến hàng triệu người chỉ do một người quyết định, bất chấp những lời khuyên của người khác. Điển hình cho tính độc tài là quyết định mở cuộc tổng tấn công vào Tết Mậu Thân. Rõ ràng, đó là một chế độ độc tài, sao gọi là dân chủ tập trung được.
    2.- Nội bộ thiếu đoàn kết. Thoạt đầu, ấn tượng của tôi về các vị lãnh đạo phe CSVN là họ rất đoàn kết với nhau. Nhưng đọc qua Bên thắng cuộc và kinh nghiệm cá nhân, tôi mới thấy ấn tượng đó rất sai lầm. Người CSVN, đặc biệt là trong giới lãnh đạo thượng tần, rất ganh ghét và đố kỵ lẫn nhau. Huy Đức qua những câu chuyện cá nhân phác hoạ một bức tranh rất xấu về Lê Đức Thọ và Lê Duẩn, hai người không ưa tướng Võ Nguyên Giáp. Từ một tướng vang danh thế giới bị hạ xuống người đi đặt vòng ngừa thai cho phụ nữ! Những ganh ghét và đố kỵ rất con người cũng giống như các lãnh đạo thuộc phe VNCH. Nhưng có cái khác biệt căn bản là các lãnh đạo VNCH hành xử có văn hoá hơn và có phần tế nhị hơn so với các lãnh đạo phe CS.
    Họ sẵn sàng dựng nên những câu chuyện để bôi xấu lẫn nhau. Vụ án “Năm Châu – Sáu Sứ” được Huy Đức mô tả khá rõ và cho thấy các đồng chí thượng tầng CS có thể lập mưu mô để hạ bệ những ai họ không ưa thích. Họ còn dám dùng cả những thủ đoạn thấp như photoshop để nguỵ tạo hình ảnh trai gái để tố cáo ông Lê Khả Phiêu lúc đó là tổng bí thư đảng.
    3.- Tàn nhẫn. Sự hành xử của một số lãnh đạo CS cấp cao có thể nói là tàn nhẫn. Sự tàn nhẫn thể hiện ngay giữa các đồng chí. Chúng ta thử đọc qua đoạn mô tả Võ Chí Công, Đoàn Khuê và Nguyễn Đức Tâm trả thù Võ Viết Thanh sau khi tướng Thanh bắt Năm Châu và Sáu Sứ:
    “Tôi tới phòng làm việc của Đoàn Chủ tịch Đại hội, thấy Võ Chí Công, Nguyễn Đức Tâm, Đoàn Khuê, Nguyễn Quyết, Nguyễn Thanh Bình đang chờ. Mặt Đoàn Khuê hằm hằm, Võ Chí Công và Nguyễn Đức Tâm nói ngắn gọn: ‘Chúng tôi thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, báo đồng chí hai nội dung. Trước hết, xin chuyển tới đồng chí nhận xét của Bộ Chính trị: Đồng chí là một cán bộ cao cấp còn trẻ, công tác tốt, rất có triển vọng, nhưng rất tiếc, chúng tôi vừa nhận được một số báo cáo tố cáo đồng chí hai việc: Một, ngay sau giải phóng, đồng chí có cho bắt hai cán bộ tình báo của Bộ Quốc phòng và từ đó hai cán bộ này mất tích; hai, cái chết của cha mẹ đồng chí là bị ta trừ gian, chứ không phải do địch giết. Vì vậy, chúng tôi đành phải rút đồng chí ra khỏi danh sách tái cử vào Trung ương khóa VII’.”
    Ông Võ Viết Thanh phản ứng như sau:
    “Tôi hết sức bất ngờ. Khi nghe xúc phạm đến ba má tôi thì tôi không còn kiềm chế được. Trong cặp tôi lúc đó có một khẩu súng ngắn, tôi đã định kéo khóa, rút súng ra bắn chết cả ba ông rồi tự sát. Nhưng, tình hình lúc đó, nếu tôi làm thế là tan Đại hội. Tôi cố nuốt cơn tức giận.”

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. 4.- Lừa gạt và dối trá. Người dân đã bị bộ máy tuyên truyền của chế độ định hướng suy nghĩ và cảm nhận. Những trẻ em mới lớn lên đã bị bộ máy tuyên truyền nhồi nhét rằng các vị lãnh đạo đáng kính suốt đời hy sinh hạnh phúc cá nhân để đấu tranh cho bình đẳng xã hội. Họ còn bị nhồi nhét rằng chế độ VNCH là chế độ ác ôn, với những con người ăn trên ngồi trốc, trong khi phần lớn người lao động phải sống khổ cực. Nhưng Bên thắng cuộc lột trần “huyền thoại” cao cả của các lãnh đạo CS. Sự thật nói lên rằng họ chính là những người ăn trên ngồi trốc. Trong khi người dân không đủ cơm ăn thì họ phè phỡn với bơ sữa từ Đông Âu. Họ có những vườn rau riêng. Họ có một đội quân bác sĩ chăm sóc sức khoẻ dưới danh xưng “Ban bảo vệ sức khoẻ trung ương”. Người dân không có thuốc điều trị nhưng lãnh đạo CS thì có thừa. Nếu lấy cái nền lãnh đạo VNCH có đặc quyền đặc lợi là 1 thì những người lãnh đạo CS có đặc quyền đặc lợi phải lên đến 100. Do đó, tất cả những gì người CS phỉ báng giới lãnh đạo VNCH thì cũng chính là những gì họ phỉ báng chính họ với cường độ cao hơn 100 lần. Một cách ngửa mặt lên trời phun nước bọt.
      5.- Đạo đức giả. Báo chí miền Bắc thường ra rả tuyên truyền rằng lãnh đạo VNCH là những kẻ ăn chơi, đa thê đa thiếp, chỉ biết suốt ngày nhảy đầm chứ chẳng có kiến thức chính trị gì cả. Họ còn viết hẳn một cuốn sách về các tướng lãnh VNCH. Đọc cuốn này cũng là một phương thức giải trí tốt vì các tác giả có khả năng tưởng tượng khá tốt. Nhưng còn các lãnh đạo CS thì sao? Họ là những kẻ nhiều vợ. Lê Duẩn. Nguyễn Văn Linh. Lê Đức Thọ. Võ Văn Kiệt. Có thể cả ông Hồ. Tất cả đều có hơn 1 vợ. Tất cả đều sẵn sàng bỏ vợ lại sau lưng để “theo đuổi sự nghiệp cách mạng”. Nhưng cũng có thể họ xem phụ nữ như là những người để họ giải quyết vấn đề tình cảm sinh lý. Không phải ai trong giới lãnh đạo CS đều sống vô đạo đức, nhưng nhìn qua những nhân vật cao cấp chúng ta thấy nói rằng thói đạo đức giả rất phổ biến trong giới thượng tầng của chế độ.
      6.- Dốt nát. Chúng ta biết rằng những người cộng sản thế hệ thứ nhất như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp (không tính đến những người như Trần Phú, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ) là những người có trình độ học vấn khá và có bản lãnh. Nhưng Bên thắng cuộc tiết lộ rằng những người thuộc thế hệ đàn em của những người tiền phong toàn là một nhóm người ít học. Những lãnh đạo như ông Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Nguyễn Văn Linh … đều xuất thân từ thành phần không có cơ hội học hành đến nơi đến chốn. Sự dốt của lãnh tụ có khi đến mức hài hước. Trong phần viết về sức khoẻ lãnh đạo, chúng ta được biết ông Đỗ Mười nói về bệnh trạng của tướng Đoàn Khuê, qua lời thuật của ông Nguyễn Văn An, như sau: “Đoàn Khuê nói với tao, uống tam thất nó tan hết rồi mà. Đoàn Khuê còn vạch bụng cho tao xem. Tôi bảo: thưa anh, theo chuyên môn thì đấy là khối u nó chạy chứ không phải tan đâu ạ”. Thật kinh hoàng khi những con người như thể được đặt ở vị trí chót vót lãnh đạo một đất nước 90 triệu dân!

      Qua Bên thắng cuộc chúng ta biết rằng các lãnh đạo CS có tầm nhìn rất hạn hẹp. Có thể do bị nhào nặn bởi tuyên truyền cộng với kém học thức nên các lãnh đạo CS có kiến thức rất nghèo nàn về thế giới ngoài các nước XHCN và Trung Cộng. Từ đó dẫn đến những nhận định sai lầm và những lựa chọn bất lợi cho đất nước. Điển hình là câu chuyện đằng sau việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ. Câu chuyện cho thấy giới lãnh đạo CS thiển cận và làng xã trong những nhận xét của họ về một đối thủ rất quan trọng.
      (Click tiêu đề xem toàn bài)

      Xóa
  19. Giáo sư người Nhật Ari Nakano, chuyên ngành chính trị học, đang làm việc tại đại học Daito Bunka tại Nhật Bản. Bà cũng dạy tiếng Việt cho một số Đại học Nhật. Bà đã dịch hai cuốn sách của tác giả Bùi Tín là Hoa Xuyên Tuyết và Mặt Thật, và hiện đang dịch quyển Bên Thắng Cuộc của tác giả Huy Đức sang tiếng Nhật. Tháng hai vừa qua bà có tham gia một hội thảo về chính sách môi trường tại Hà Nội. Bà đã dành cho Kính Hòa cuộc phỏng vấn sau đây:

    Giúp người Nhật hiểu rõ VN
    Kính Hòa: Được biết là giáo sư đang dịch quyển Bên Thắng Cuộc của nhà báo Huy Đức sang tiếng Việt, theo giáo sư thì quyển sách có tầm quan trọng như thế nào đối với Việt Nam hiện đại?

    GS Ari Nakano: Chiến tranh Việt Nam đã kết thúc ba mươi tám năm rồi. Tác giả Huy Đức sinh năm 1961, cùng thế hệ với tôi, thế hệ không có trải nghiệm cuộc chiến đó. Có thể là anh Huy Đức không có bị ảnh hưởng nhiều bởi ý thức hệ chính trị, vì vậy điều đó cho phép anh ấy có cái nhìn khách quan hơn về lịch sử. Tôi cho rằng cuốn sách này quan trọng đối với người Việt Nam. Tôi nghe rằng học sinh Việt Nam không quan tâm đến lịch sử bởi vì lịch sử được giảng dạy ở Việt nam theo ý thức hệ chính trị. Tôi hy vọng thế hệ trẻ Việt nam sẽ quan tâm hơn về lịch sử không phải với ý thức hệ chính trị mà với tầm nhìn khách quan hơn.

    Kính Hòa: Giáo sư nghĩ rằng công chúng người Nhật sẽ đón nhận cuốn sách ra sao?

    GS Ari Nakano: Trong thời kỳ chiến tranh người Nhật quan tâm đến Việt Nam và sau khi chiến tranh kết thúc, sự quan tâm đó mất đi vì chúng tôi không có thông tin từ trong nước Việt Nam. Chúng tôi không hiểu tại sao lại có thuyền nhân, tại sao lại có chiến tranh giữa Việt Nam với Campuchia và với Trung Quốc. Chúng tôi chưa bao giờ hiểu là thực sự cái gì đã xảy ra bên Việt Nam sau năm 1975. Người Nhật chỉ biết về chiến tranh Việt Nam và thời kỳ đổi mới, chúng tôi không có thông tin về giai đọan sau 1975 cho đến khi đổi mới bắt đầu. Sách Bên Thắng Cuộc sẽ giúp người Nhật hiểu những điều đó.

    Kính Hòa: Giáo sư có gặp khó khăn gì không khi dịch quyển sách này?

    GS Ari Nakano: Tôi thường xuyên liên lạc với anh Huy Đức qua email và anh ấy trả lời rất nhanh nên tôi không gặp khó khăn gì dù tôi ít có thì giờ. Tôi chỉ có một lo ngại cho anh ấy sau khi anh ấy về nước, không biết có bị bắt hay không?

    Kính Hòa: Xin giáo sư cho biết về cuộc hội thảo ở Hà nội hồi tháng hai mà giáo sư có tham gia.

    GS Ari Nakano: Hồi tháng hai vừa qua tôi có một cuộc hội thảo tại Hà Nội về chính sách môi trường tại Việt Nam, kể cả dự án Bauxite ở Tây Nguyên. Rất tiếc là phía Việt nam không muốn đề cập đến vấn đề Bauxite nên chúng tôi đã không thảo luận được gì cả. Tôi cho là hội thảo có rất ít kết quả vì phía cơ quan chính phủ Việt Nam không muốn công khai những gì bất lợi cho họ.

    Kính Hòa: Thưa Giáo sư, tôi có nghe nói là do bài viết về cuộc hội thảo đó của Giáo sư trên báo Asahi Shimbun mà công an đã đến văn phòng của báo này ở Hà Nội.

    GS Ari Nakano: (cười) Tôi có nghe nói, mà thực ra thì đại diện của Asahi với bài viết có quan hệ gì đâu.

    Kính Hòa: Thưa Giáo sư có nghĩ rằng do bài viết ấy mà Giáo sư sẽ gặp khó khi trở lại Việt nam không?

    GS Ari Nakano: (cười) Tôi không biết là đối với một giáo viên đưa sinh viên Nhật sang Hà Nội học tiếng Việt hai hay ba tuần thì có gặp khó khăn gì không.

    Kính Hòa: Xin cám ơn Giáo sư đã dành thời giờ cho Đài Á Châu Tự Do thực hiện buổi phỏng vấn hôm nay.

    Trả lờiXóa

Best Blogger TipsBest Blogger Tips