Có một nhà báo Mỹ đang chịu búa rìu dư luận trên mạng
Internet, vì một bài ông ta viết sau chuyến đi thăm Việt Nam. Joel Brinkley mở
đầu bài báo trên mạng Chicago Tribune như thế này: “Bạn không cần phải ở Việt
Nam lâu ngày mới thấy một điều bất bình thường.
Không nghe thấy tiếng chim hót, không thấy những con
sóc leo cây hay những con chuột bới đống rác. Không thấy ai dắt chó đi ngoài đường.
Sự thật là, bạn không nhìn thấy con thú nào, sống hoang hay được người nuôi.
Chúng đi đâu cả? Bạn sẽ ngạc nhiên khi biết tại sao: Phần lớn đã bị ăn thịt.”
Joel Brinkley kể tiếp về thú vui ẩm thực của người
Việt, đặc biệt là người ta ăn cả thịt chó lẫn thịt chuột. Ðó là ông chưa thấy họ
ăn cả thịt rùa, ba ba, thịt rắn, thịt kỳ đà, thịt chim cút, ăn nhộng, ăn lòng lợn,
gan gà, tiết canh vịt, ăn châu chấu, ăn rươi, ăn cả những con sâu “đoong” nằm
trong cuống dừa. Nhiều người nghe nói tới những món đó chắc muốn hỏi có sách nấu
nướng nào dạy không. Còn chàng du khách Brinkley thì nhận xét: “Người Việt
thích ăn thịt, chắc ăn nhiều quá nên tính tình hung hăng hay gây sự
(aggressive).”
Joel Brinkley có vẻ thích thú đã tìm thấy một định
luật về “dinh dưỡng-xã hội-tâm lý-sinh lý học,” sau chuyến du lịch ba tuần! Một
nhà báo (dù đã từng được giải Pulitzer), và một giáo sư dạy môn báo chí (dù dạy
ở Ðại Học Stanford) cũng không nên công bố một định luật “đa khoa”
(multidisciplinary) nhanh quá như vậy! Chẳng trách, một sinh viên người Mỹ viết:
“May quá, ông này không dạy tôi!” Một người Mỹ khác than: “Brinkley làm xấu mặt
cả giới làm báo!” Sonny ở California dùng các con số: “Về khuynh hướng hung
hăng do ăn thịt gây ra thì tôi nghĩ ông đang nói về nước CHÚNG TA (nhấn mạnh
trong nguyên văn), nước ông và nước tôi. Người Mỹ mỗi năm ăn trung bình 125 ký
lô thịt, đứng thứ nhì trên thế giới, chỉ sau Luxembourg (136 kilos), so với người
Việt ăn mỗi năm chỉ ăn 41 ký, đứng hàng thứ 90! Mà tôi chưa nghe nói nước
Luxembourg đi đánh nhau với ai bao giờ cả!” Một độc giả khác, McElwee đã sống ở
Việt Nam năm năm, cũng tự hỏi: “Không hiểu sao ông ta đi từ chỗ ghét những người
ăn thịt chó và thịt chuột để liên hệ tới ý tưởng là ở Việt Nam thiên nhiên
hoang dã không được bảo vệ?”
Sau khi đọc bao lời bình phẩm như trên (có cả một độc
giả gốc Hàn Quốc tham dự), Joel Brinkley đã viết một bài ngắn tự phân trần. Ông
nhận xét: “Người Việt Nam có vẻ rất nhậy cảm khi bị phê bình. Mà dân tộc nào chẳng
vậy.” Ông nói rất chí lý, nhưng tưởng điều này ai cũng biết cả rồi. Vẫn bảo vệ
định lý “ăn thịt sinh hung dữ,” ông so sánh người Việt với người Lào,
Campuchia. Ông thấy dân chúng hai nước này thường chỉ ăn cơm, cho nên trẻ em nhỏ
con hơn và không khôn lanh bằng trẻ Việt. Ông kết luận: “Có phải như vậy thì
khi lớn lên chúng không hung hăng như người Việt Nam không? Tôi (Brinkley) tin
như thế.”
Lại thêm một định luật đa khoa nữa. Ðộc giả có ai
tin như thế hay không? Chắc ông Brinkley phải nghiên cứu lại xem Pol Pot và các
đồng chí Khờ Me đỏ họ ăn cái gì! Một độc giả nói thẳng: “Bài trả lời của ông ta
còn tệ hơn bài trước. Cứ theo lối ông ta nói về người Lào và người Campuchia
thì chắc mình phải bắt các dân tộc này cứ tiếp tục nghèo và đói, để họ khỏi
hung dữ...”
Trong bài trả lời, Brinkley cũng cho lên mạng một bức
hình ông chụp ở Việt Nam, hình một bà đang ngồi ở chợ, trước mặt là mấy cái
thau ngâm xác những con chuột trắng hếu: Ðó, trông ghê chưa? Nhưng nhiều người
coi hình không thấy ghê. Cô Erica J. Peters, đã viết sách về thức ăn Việt Nam,
nhận xét: “Bức hình của ông cho thấy những con vật này đã được làm sạch sẽ, giống
như ở bất cứ một cửa hàng bán thịt nào!” Về chuyện giết chuột, một độc giả tên
Quốc Tấn so sánh: “Ở Mỹ số chuột bị giết cao hơn ở Việt Nam gấp bội, họ gọi đó
là Bảo vệ Mùa màng!”
Còn nhiều người phản đối ông Brinkley nữa, nhưng đọc
bấy nhiêu lời cũng đủ. Một trong những “người Việt nhậy cảm” là cô Uyên Nguyễn,
một sáng lập viên OneVietnam Network. Cô nói thẳng về bài báo: “Nó sỉ nhục. Nó
đánh thẳng vào văn hóa của chúng tôi.”
Chắc cũng không cần quá nhậy cảm với một bài báo về
du lịch. Một ký giả trang du lịch chỉ muốn viết mua vui, kiểu những người đi xa
về thì hay nói; chắc không cố ý sỉ nhục ai hết. Tiếc là trong khi kể chuyện người
viết không biết tự kiềm chế, lại đưa ra những định luật tổng quát nằm ngoài phạm
vi chuyên môn của mình. Có thể tin lời Brinkley phân trần, ông ấy không hề có ý
định nói xấu người Việt Nam. Ðúng kiểu người Việt Nam, tôi sẽ bảo ông: Thôi, xí
xóa.
Tôi kể lại câu chuyện trên vì sau bài báo trên rất
nhiều độc giả Mỹ xúm lại nói người Việt Nam rất tốt. Có người viết: “Người Việt,
mặc dù họ ăn mấy món không hợp khẩu vị chúng ta, nhưng họ là một dân tộc rất dễ
thương.” Tất nhiên rồi! Một người khác đã du lịch Việt Nam, viết: “Mấy năm trước
tôi đi Việt Nam hai tuần... và ngạc nhiên thấy ngoài đường rất nhiều chó do người
ta nuôi... Tôi chưa từng thấy dân tộc nào nồng hậu và hào phóng (warm and
generous) bằng người Việt Nam. Có lần tôi đi dạo bằng xe đạp, khát nước quá, một
người bán xăng đã chạy vào trong lấy ra chai nước của anh ta, cho tôi, và nhất
định không nhận tiền.” Tất nhiên rồi! Người nước nào gặp người ngoại quốc cũng
cư xử tốt hơn với người cùng nước họ! Những giống dân tử tế thì lại càng tốt
hơn!
Mà chính người Việt, họ đâu có ngần ngại không tự kể
tật xấu của mình? Nhà báo Từ Thức, ở Paris viết: “Tự hào dân tộc để một bên, phải
nhìn nhận cái cảnh thịt chó, thịt chuột treo lủng lẳng trong tiệm ăn nó ghê rợn
thiệt. Nhất là cái cảnh giết chó. Ngồi hào hứng nhậu, bên cạnh cái màn giết
chó, cắt cổ con vật, lấy gậy đập đầu chó kêu thảm thiết. Khó kiếm chữ nào để diễn
tả hơn chữ 'man rợ.'” Và ông viết chúc Tết Quý Tỵ cho bạn bè thế này: “Chúc cho
đất nước yêu quý của chúng ta đang nằm trong số 10 nước nghèo khổ nhất thế giới
sẽ tiến lên, trở thành một trong 20 nước nghèo khổ nhất thế giới!”
Nhưng tại sao chúng ta thấy ghê rợn trước cảnh “thịt
chó, thịt chuột treo lủng lẳng” mà lại không cảm thấy gì hết khi nhìn những cái
đùi heo hun khói cũng treo lủng lẳng trong các tiệm ăn ở Paris (jambon) hay
Madrid (jamón) nhỉ? Chắc khi nhìn những cái đùi tròn trĩnh thơm tho thì mình chỉ
thèm thuồng nên quên cảnh con heo bị chọc tiết! Nhiều cái chợ, trên cái tủ lạnh
đầy thịt bò đỏ tươi còn treo cái hình đầu bò đang cười toe toét. Làm như cô bò
đang hân hoan “kính mời quý khách mua các món thịt đùi, món xì tếch, món sườn
bò Ðại Hàn, món filet mignon,” để thưởng thức thịt chúng tôi! Mại vô! Loài người
kể cũng hay thật! Không hiểu nếu những con sư tử, con cọp biết mở siêu thị thì
chúng có treo thịt đùi người lủng lẳng hay không nhỉ?
Thật ra, nếu muốn tìm những cái xấu ở Việt Nam không
phải chỉ có tật ăn thịt chuột đáng mang ra phê bình. Nếu như Joel Brinkley chủ
tâm nói xấu, ông sẽ được nghe nhiều chuyện tệ hơn, tha hồ kể. Như chuyện một phụ
nữ bị cướp mất nhà, đất, uất ức quá mà không làm gì được, bèn cởi hết quần
áo để
bày tỏ ý kiến. Tất nhiên, bà bị kết tội “lạm dụng quyền tự do ngôn luận,” một
thứ quyền thực ra chỉ được được nhà nước cấp phát từng trường hợp, giống như
“tem phiếu tự do!” Lại đến cảnh một bà
mẹ phải tự đốt mình sau khi cả mẹ con bà
bị đe dọa đuổi nhà, chỉ vì có một cô con gái dám “tự do ngôn luận” bằng cách đi
biểu tình và làm blog phản đối... một nước láng giềng cướp mấy hòn đảo của nước
mình!
Xem thêm: Vị giáo sư đã ăn thịt gì trước khi ném đá văn hóa Việt?
Xem thêm: Vị giáo sư đã ăn thịt gì trước khi ném đá văn hóa Việt?
Ông giáo sư Stanford đặt câu hỏi “Tất cả các loài vật ấy đã đi đâu hết?” và tự trả lời “Bạn sẽ bị kinh ngạc khi biết: Hầu hết chúng đã bị ăn thịt.”
Trả lờiXóaĐúng là nói mò! Ngưới Việt ít ai ăn thịt sóc, thịt chuột, chỉ có người nghèo khó không mua được thịt bò, heo, gà mới dùng đến chuột. Còn thịt chó thì là món thích khẩu của một số người, đa số là người miền Bắc. Người ta cũng nuôi chó để ăn thịt giống như một vài vùng ở miền Tây Trung quốc. Họ ăn thịt chó vào mùa Thu và Đông vì cho là bổ phổi. Không ăn vào mùa hè.”
Điều quan trọng nhất cần nói với ông Joel Brinkley là chưa có một nghiên cứu nào về tương quan giữa thái độ hiếu chiến nơi con người và việc ăn thịt cả. Theo thống kê thì Hoa Kỳ là quốc gia có dân ăn thịt đông thứ nhì thế giới, giáo sư Brinkley có biết không?
Một phó Giáo sư Môi Sinh con người tại trường Đại Học Rutgers và là chuyên gia Bảo Tồn Sinh vật Hoang dã tại Việt Nam, bà Pamela McElwee nói “Tôi không hiểu là tại sao ông ta (Joel Brinkley) lại có thể đi từ việc không thích người ăn thịt chó, thịt chuột đến ý tưởng liên quan đến việc bảo tồn thú vật hoang dã tại Việt Nam. Bà Pamela McElwee cũng chỉ trích việc liên kết thói quen ăn thịt của người Việt Nam với sự hiếu chiến. Bà nói rằng tất cả các quốc gia Đông Nam Á đều đã phải lâm vào cảnh chiến tranh.”
Trong một cuộc phỏng vấn sau khi bị chỉ trích, Brinkley nói ông ta đã rút kết luận từ mười ngày quan sát của ông tại Việt Nam. “Tôi đi với một nhóm và đó là nhận xét mà tất cả chúng tôi cùng có đó là không có đời sống hoang dã tại Việt Nam.”
Trên Website báo chí JimRomenesko.com, Brikley biện bạch cho khẳng định của ông rằng thói quen ăn thịt làm cho người Việt Nam hiếu chiến hơn các dân tộc láng giềng Đông Nam Á. “Thức ăn hàng ngày đơn giản giàu chất protéin sẽ làm cho bạn cường tráng hơn kẻ khác, tại Lào, Căm-bốt và các nước Đông Nam Á khác người ta ăn gạo và rất ít thứ khác. Do đó mà một nửa số trẻ em Lào lớn lên bị còi cọc, ngay cả hiện nay. Tại Căm-bốt thì tỷ lệ bày là 40 phần trăm. Có nghĩa là họ tăng trưởng ngắn hạn và không mạnh mẽ lắm. Cũng có thể do đó mà họ sẽ ít hiếu chiến hơn người Việt Nam chăng? Tôi nghĩ như vậy.”
Tôi nhận thấy rằng giáo sư Đại Học Stanford Joel Brinkley càng chống chế càng lòi cái dốt của ông ra. Xin hỏi ông “Khờ-me đỏ có phải người Căm- bốt không? Ông có biết con người Polpot như thế nào không?
Ông có biết thực phẩm chính của người Việt Nam là gì không? Người Lào ăn xôi, thì người Việt Nam ăn cơm, cũng từ “rice” mà ra đấy ông giáo sư Brinkley ạ. Ngoài ra, đa số người Việt Nam hiện nay dưới chế độ cộng sản không có nhiều thịt mà ăn đâu, làm sao nói là có thói quen! Tầng lớp cán bộ cao cấp và đại gia mới ăn nhiều thịt. Chắc ông giáo sư đã được bọn này tiếp đón, đãi đằng nên mới suy ra là dân Việt Nam có thói quen ăn thịt!
Tâm tính của một dân tộc tùy thuộc vào nòi giống, hoàn cảnh sinh hoạt và phong thủy của khu vực chứ không phải do thức ăn. Ông giáo sư Brinkley chắc chắn không ăn thịt chó, thịt chuột, nhưng sao cách ăn nói của ông không nhã nhặn hiền lành một chút nào cả?
Ông nên biết là cái kết luận hồ đồ, thiếu cơ sở nghiên cứu, thiếu kiến thức tối thiểu về văn hóa địa phương của ông là một thái độ hiếu chiến tấn công trực diện vào văn hóa của một dân tộc khác (dù ông chối rằng “which was not my intention”) cũng ít ai tin được.
(Click tiêu đề xem toàn bài)
Cuối cùng thì vị giáo sư đang “nổi như cồn” Joel Brinkley, hiện giảng dạy báo chí tại Đại học Stanford (Mỹ), cũng đã lên tiếng xin lỗi trước làn sóng chỉ trích dữ dội của độc giả trong lẫn ngoài nước nhắm vào bài viết chứa đựng nhiều thông tin sai lệch về VN của ông.
Trả lờiXóa(Click tiêu đề xem toàn bài)
* “GS Joel Brinkley lẽ ra phải tìm hiểu nhiều hơn nữa trước khi viết bài này nhưng hình như ông ta chỉ biết vừa đủ để tỏ ra nguy hiểm mà thôi. Bài viết của ông đã khiến tờ báo cho khởi đăng phải xấu hổ mà thừa nhận rằng nó “không đáp ứng các tiêu chuẩn báo chí” rồi đổ thừa cho sơ sót trong “quá trình biên tập tin bài”. Đồng nghiệp trước đây của vị giáo sư này tại tờ New York Times và hiện nay ở Đại học Stanford chắc là đang lắc đầu ngao ngán” - Scott Duke Harris (nhà báo Mỹ từng đoạt giải Pulitzer)
* “Hội Sinh viên VN tại Đại học Stanford nhận thấy bài viết này là một sự xuyên tạc hình ảnh văn hóa VN... Bài báo của GS Joel Brinkley là một sự tấn công được ngụy trang sơ sài vào nền văn hóa VN, đặc biệt là thú ẩm thực. Những phát biểu xúc phạm của vị giáo sư này, như khẳng định người Việt đã tiêu thụ gần hết động vật hoang dã/thuần hóa, là không chính xác và chỉ mang tính giật gân. Tất cả chỉ dựa trên số liệu thống kê xuất phát từ những hoàn cảnh không rõ ràng... Ông ấy đã khiến chúng tôi thất vọng” - Trích từ bài viết của Hội Sinh viên VN tại Đại học Stanford đăng trên tờ The Stanford Daily, tờ báo do sinh viên trường này điều hành.
* “Tôi viết thư này thể hiện sự phản đối mạnh mẽ đối với bài viết gần đây của ông về thói quen ăn uống của người Việt. Là một bạn đọc làm trong lĩnh vực hàn lâm và với tư cách là một người Úc gốc Việt, tôi trông đợi ông phải có chút kiến thức về chủ đề mà ông đang viết, thế nhưng tôi cảm thấy thất vọng vì ông thiếu cả kiến thức cơ bản cũng như kinh nghiệm để nhận xét về văn hóa VN và Đông Nam Á. Hơn nữa, những dữ liệu ông nêu ra là vô giá trị và vô căn cứ về mặt khoa học. Hậu quả là gần như mỗi đoạn văn trong bài viết của ông đều sai sự thật hoặc không thỏa đáng về mặt khoa học” - Nguyễn Văn Tuấn (giáo sư Đại học New South Wales, Úc)