“The Sympathizer” được Nhà Xuất bản
Grove Press phát hành năm ngoái và đã được giới bình luận văn chương đưa
ra nhiều lời khen trong những tháng qua.
Hôm thứ Hai 18/4 tác phẩm này của Nguyễn Thanh Việt đã được trao giải Pulitzer 2016, thể loại tiểu thuyết hư cấu, là giải thưởng văn chương cao quí nhất ở Hoa Kỳ.
Trên chính trường Mỹ, cuộc chiến Việt
Nam đã lùi vào dĩ vãng. Nhưng trên diễn đàn văn chương, ở một góc độ náo
đó thì tâm thức nước Mỹ vẫn chưa bao giờ quên. Chiến tranh chấm dứt đã
41 năm, nay với giải Pulitzer 2016, cuộc chiến Việt Nam đã được gợi lại,
nhưng qua một góc nhìn mới lạ của Nguyễn Thanh Việt, từ một đứa trẻ tị
nạn, tốt nghiệp tiến sĩ văn chương từ Đại học Berkeley và đang giảng dạy
tại University of Southern California.
Một người Mỹ đánh vào mặt một người Việt muốn leo lên máy bay di tản trong những ngày tháng 4/1975 |
Hơn một thập niên qua, cuộc chiến Việt Nam không còn được chính giới Mỹ nhắc đến nữa, ngay cả trong các kỳ tranh cử tổng thống...
Nhưng cuộc chiến Việt Nam đang được gợi
lại qua tiểu thuyết “The Sympathizer” – Cảm tình viên – của Viet Thanh
Nguyen (Nguyễn Thanh Việt). Một tác phẩm đã có rất đông độc giả tìm đọc
trong nhiều tháng qua...
Nhân vật chính trong tiểu thuyết được
sinh ra, từ nhỏ bị khinh chê vì là con lai, lớn lên đi du học Mỹ, trở về
gia nhập quân đội Việt Nam Cộng hòa, lên đến cấp bậc đại úy và là cảm
tình viên cộng sản.
Nhiều lần cụm từ “Không có gì quí hơn độc lập, tự do” được nhắc đến. Đó là câu nói mà người Việt ai cũng biết. Vì câu nói đó mà bao triệu người Việt đã hy sinh để rồi thực tế chỉ là không có gì |
“Cảm tình viên” nhắc đến những tín điều
của đạo công giáo, với các kinh bổn, kinh tin kính mà ngay chính một
linh mục không giữ được đức tin. Cũng như niềm tin vào việc lấy lại quê
hương của một cựu đề đốc, sau tháng Tư 1975 đã lập căn cứ kháng chiến ở
Thái Lan. Hay một cán bộ chính ủy trại giam tù cải tạo với niềm tin
tuyệt đối vào chủ thuyết Mác-Lê và tư tưởng Hồ Chí Minh, qua câu nói mà
người Việt ai cũng đã nghe qua: “Không có gì quí hơn độc lập, tự do”.
Tin vào tôn giáo, tin vào lý tưởng tự do, hay tin vào cách mạng, nhưng tất cả rồi chỉ là những phản bội.
Câu chuyện bắt đầu vào những ngày hỗn
loạn cuối tháng 4/1975, khi cảm tình viên được di tản bằng máy bay từ
Sài Gòn qua Guam, đi theo một tướng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, là
cấp chỉ huy trực tiếp, cùng với một người bạn là Bốn, đã uống máu ăn thề
với nhau từ ngày còn học sinh. Một bạn chí thân khác của hai người, là
Mẫn, thì ở lại.
Phi trường Tân Sơn Nhất sau 1975 |
Sau cuộc di tản, cộng đồng người Việt tị
nạn ở Mỹ thành hình và gồm đủ mọi thành phần, làm nhiều công việc khác
nhau, bác sĩ, luật sư, gác dan, bồi bàn, làm vườn hay chỉ lãnh trợ cấp
xã hội.
Ông tướng qua Mỹ mở tiệm rượu nhưng vẫn
quan tâm chuyện chính trị, muốn lấy lại quê hương và được người của CIA
cũng như một số dân cử ủng hộ.
Vì thế không khí chống cộng hừng hực
trong cộng đồng. Bốn là người sống chung với cảm tình viên và chỉ muốn
tiêu diệt những người cộng sản. Nhiều cựu sĩ quan, binh sĩ mong muốn
được trở về lấy lại quê hương. Trong nhà, trong chung cư nhiều người
Việt, dù là cựu chiến sĩ hay sinh viên phản chiến đều có treo đồng hồ
mang hình bản đồ nước Việt Nam, lúc nào cũng chỉ giờ Sài Gòn để nói lên
nỗi nhớ quê hương của họ.
Nhưng là một điệp viên hai mặt nên từ
khi định cư ở Mỹ cảm tình viên vẫn liên lạc và báo cáo các tin tức sinh
hoạt của cộng đồng người Việt tị nạn với cán bộ trong nước, qua đường
dây bên Pháp là một người dì. Những bức thư có khi dùng mật mã, có khi
viết bằng loại mực không hiện mặt chữ. Các hoạt động của cựu tướng, của
những hội Cựu chiến sĩ Quân lực Việt Nam Cộng hòa, của mặt trận, của các
phong trào yểm trợ kháng chiến, các chương trình gây quỹ đều được báo
cáo về trong nước.
Đan xen là những cuộc tình giữa cảm tình
viên với nữ thư ký của trưởng khoa, với con gái của ông tướng là cựu
sinh viên Đại học Berkeley có tư tưởng tiến bộ phóng khoáng.
Viết về chiến tranh Việt Nam là nói đến
những đau thương, ngoài những cái chết vì bom đạn, chết ngoài chiến
trường còn là những đau đớn vì tra tấn để khai thác tin tức. Việt Cộng
tra tấn người của Việt Nam Cộng hòa như cảnh trong phim do Hollywood sản
xuất, hay trong “phòng trắng” theo cách tra tấn của CIA dạy cảm tình
viên tại trung tâm thẩm vấn ở Sài Gòn trước đây, để rồi chính những hành
hạ đó sau này lại được dùng để điều tra cảm tình viên sau khi bị bắt
trên đường xâm nhập vào Việt Nam.
Tác giả đã dựng lên những vụ giết người
thật éo le. Đó là những vụ ám sát vì lý do chính trị nhưng có thể hiểu
là vì tình, vì bị cướp.
Như cái chết của cựu thiếu tá mà Bốn và cảm tình viên chủ mưu ám sát rồi dàn cảnh như là nạn nhân bị cướp giết.
Một chủ báo từng là sinh viên du học Mỹ,
có tư tưởng phản chiến, làm báo đưa tít: “Move on. War over” cùng đăng
những bài viết kêu gọi “hòa giải, trở về xây dựng quê hương” mà cựu
tướng cho là thân cộng và ông chỉ nói một câu là cảm tình viên biết sẽ
phải làm gì.
Thế là chủ báo chết, được dàn dựng để
bên ngoài cho là chết vì tình, cuộc tình giữa chủ báo và người phụ nữ
cực tả gốc Nhật mà cảm tình viên cũng mê, từng ân ái với cô.
Giết nhà báo xong, cảm tình viên được
ông tướng đưa qua Thái Lan cùng với Bổn và hai cựu sĩ quan nữa để tham
gian kháng chiến, lấy lại quê hương. Nhưng thực trong tâm cựu tướng muốn
chia cắt quan hệ của cảm tình viên với con gái của ông.
Tiểu thuyết kết thúc bất ngờ khi cán bộ
chính ủy cho cảm tình viên rời trại học tập cải tạo và giúp để vượt biển
vào đầu năm 1979, từ Sài Gòn, cùng với Bốn. Ra đi lần này, cảm tình
viên đem theo 295 trang giấy viết tự kiểm thảo trong hơn một năm bị giam
trong trại học tập ở miền Bắc từ khi cảm tình viên, với Bốn và vài
kháng chiến quân nữa bị phục kích và bị bắt trong khi xâm nhập vào Việt
Nam từ Thái Lan qua ngả Lào.
Người Việt ngày nay tại Mỹ |
Cách hành văn lôi cuốn, đưa người đọc
đến những ngạc nhiên và hồi hộp liên tục bên cạnh những nét của đời sống
người tị nạn ở Mỹ, phảng phất văn hoá Việt qua trang phục, ẩm thực,
sinh hoạt học đường, nếp sống gia đình, sinh hoạt văn hoá trước cũng như
sau tháng Tư 1975, với ca dao tục ngữ: “Công cha như núi Thái Sơn…”,
với thơ Tố Hữu “Mặt trời chân lý chói qua tim”, với văn chương Liên Xô:
“Thép đã tôi thế đấy”.
BÙI VĂN PHÚ - Bài
gốc
Tết đã qua, những ngày lễ tết này càng làm cho tôi phải suy nghĩ nhiều hơn về việc tôi có phải là người Việt Nam không. Tôi không mấy quan tâm đến câu hỏi này lắm, bởi không thể có câu trả lời đúng cho nó, và cũng bởi ngụ ý của nó là điều khiến tôi để tâm hơn.
Trả lờiXóaCâu hỏi này bao gồm cả những hàm ý về những thứ rất Việt Nam, chẳng hạn như: Bạn là người Việt nếu phân biệt được phở nào ngon và phở nào không ngon, bạn là người Việt nếu yêu thích một nhãn hiệu nước mắm nào đấy, bạn là người Việt nếu khóc mỗi khi nghe Khánh Ly hát, bạn là người Việt nếu biết Modern Talking là ai, bạn là người Việt nếu… Danh sách này sẽ còn rất dài. Thế nhưng câu hỏi về gốc gác có ý nghĩa như thế nào chỉ gây hứng thú với tôi bởi những lý do ẩn chứa đằng sau nó.
Tháng trước tôi đã tham dự một bữa tiệc đón Tết và có trò chuyện với một học giả trẻ người Việt mới từ Việt Nam sang. Chúng tôi đã nói chuyện khoảng hơn 10 phút, hoàn toàn bằng tiếng Anh. Khi bạn ấy hỏi tôi, “Anh không phải là người Việt đúng không?” thì bất chợt tôi lại nhớ về một bữa tối khác với một nhóm các chuyên gia nghiên cứu người Việt. Tại đó, một sinh viên trẻ đang theo học tiến sĩ cũng mới từ Việt Nam sang, sau một hồi trò chuyện, đã nói với tôi rằng: “Anh trông không giống người Việt mấy”.
Hồi xưa tôi đã từng đến Việt Nam nhiều lần, sau khi nghe thấy tôi nói một chút tiếng Việt thì mọi người ở đây đã ồ lên “Tiếng Việt của anh tốt quá!” Điều này có nghĩa họ không coi tôi là một người Việt, vì chẳng có ai lại khen tiếng Việt của một người Việt cả. Tôi nghĩ rằng điều này cũng tương tự như một anh Tây nói tiếng Việt ở Việt Nam. Mọi người sẽ đối xử với anh ta rất chu đáo nếu như anh ta nói với họ bằng tiếng Việt một câu đại loại như “Làm ơn đưa tôi đến chợ Bến Thành”.
Khi còn là một đứa trẻ ở San Jose, cha mẹ bắt tôi phải theo học tại một trường dòng dành cho người Việt vào mỗi Chủ Nhật. Hồi đó tôi hầu như còn không nói được bất kỳ từ tiếng Việt nào. Tại thời điểm ấy, mọi người quan niệm rằng, nếu không nói tiếng Việt tại lớp học thì không phải là người Việt.
Có lẽ áp lực của những người còn quá xa lạ với cuộc sống tại Mỹ đã khiến những người Việt ở đây phải tự chứng minh gốc gác của mình. Hệt như một tiểu hành tinh va vào Trái Đất, những người này làm tất cả để bảo vệ bản sắc và văn hóa Việt. Vì vậy, họ thường tổ chức những lễ hội và lễ nghi tại nơi công cộng và trường học. Đó là những nơi mà quy định phải là người Việt Nam rất rõ ràng. Nếu bạn cảm thấy mình thuộc về nơi này, thì đó là nhà của bạn.
Nhà là nơi an ủi, là nơi mọi người chào đón bạn, gọi tên bạn, đảm bảo rằng bạn không túng thiếu. Nhà cũng là nơi mọi người thấu hiểu đến mức có thể đặt vào vị trí của bạn, thậm chí là nơi mọi người thù ghét bạn, trút những giận dữ vào bạn.
Không ai có thể nhào nặn bạn giống với những người Việt khác. Tôi nhớ khi mình còn đang học lớp hai, những đứa trẻ người Việt tại trường học San Jose đã lập ra các băng nhóm và đánh nhau trên sân trường nhằm tranh giành địa bàn. Những người Việt đã mang theo ngôi nhà của họ đi khắp nơi.
Tôi không đến Việt Nam với hy vọng rằng mình sẽ ngay lập tức cảm thấy đây là nhà hoặc sẵn sàng hôn lên đất mẹ. Tôi mong đợi mình sẽ đến đây với tư cách của một người ngoại quốc, và tôi đã làm như vậy. Vấn đề duy nhất là những người Việt, một khi biết được tôi là ai thì họ lại muốn tôi phải cảm nhận và hành động như một người bản xứ. Ngược lại, với những vấn đề liên quan đến tiền bạc thì họ lại coi tôi như một người nước ngoài.
Nhưng đó là khoảng thời gian rất lâu về trước. Hiện tại, người Việt đã định nghĩa lại gốc gác của họ, bởi những gì mà người Việt làm ở Việt Nam phải hoàn toàn thuần Việt. Một số người Việt rất giàu, họ hoàn toàn có thể làm bất cứ điều gì mà những người giàu trên toàn thế giới đã làm, chẳng hạn như ăn một bát phở trị giá 35 USD hoặc lái chiếc xe Lamborghini trên đường phố Sài Gòn. Thế nhưng bạn không thể lái xe ở bất kỳ nơi nào trong Việt Nam với tốc độ nhanh hơn 50 km/giờ.
Trả lờiXóaBởi vậy hành động lái xe trên đường phố mặc dù có thể giống người nước ngoài, thế nhưng nó vẫn rất thuần Việt. Trong khi đó ở Mỹ, đã có một thế hệ người Mỹ gốc Việt mới được hình thành. Một số người muốn tổ chức các chương trình nhằm bảo tồn văn hóa Việt Nam. Mặt khác, một số khác lại có nhu cầu được tìm hiểu về nền văn hóa của họ, hoặc ngắm nhìn văn hóa như một cổ vật trong viện bảo tàng, yên tĩnh và trường tồn.
Tuy nhiên những người Mỹ hiện đại không nhất thiết phải đội những bộ tóc giả nặng trịch, đội mũ ba sừng hay sở hữu nô lệ để chứng tỏ nền văn hóa Mỹ. Chúng tôi đã vượt qua những khuôn mẫu đó và hạnh phúc khi thấy James Franco đại diện cho văn hóa Mỹ tới toàn thế giới. Thế nhưng hơn 10 năm nay tôi chưa hề tham dự một chương trình giao lưu văn hóa Việt Nam. Điều này thôi thúc tôi tò mò muốn biết những sinh viên gốc Việt được sinh ra tại Mỹ sẽ múa quạt trong trang phục nông dân sẽ như thế nào.
Thế hệ chúng tôi cũng đã từng làm vậy trong khi hầu hết đều chưa bao giờ được biết đến cảm giác đi chân trần trên một cánh đồng lúa. Lớn lên ở San Jose trong những năm 80 đầy khó khăn, tôi còn không biết một cánh đồng lúa trông như thế nào. Ý niệm của tôi về văn hóa Việt Nam chỉ là con người Việt Nam rất thông minh và tháo vát. Họ vẫn miệt mài làm việc trong khi đã nhận được tiền phúc lợi và tem phiếu lương thực. Đó là chương trình văn hóa mà tôi muốn xem.
Ngày nay thế hệ trẻ gốc Việt được sinh ra tại Mỹ không nói tiếng Việt, cũng không hề bận tâm tới suy nghĩ của những người da trắng, lại càng không thực sự quan tâm đến việc họ có là người Việt hay không. Thi thoảng tôi có gặp những người này ngoài đời, hoặc chỉ ngắm nhìn họ từ xa. Tila Tequila chẳng hạn. Cô ấy không bao giờ nhận mình là người Việt, thế nhưng ở một chừng mực nào đó, cô ấy lại là người Việt trong cách cư xử của mình.
Tôi đã nhìn thấy nhiều người như Tila ở Sài Gòn và San Jose, luôn muốn được bứt phá. Tôi nghĩ rằng mình đã bỏ lỡ rất nhiều người Việt như vậy. Họ là người Việt, nhưng lại không phải là người Việt. Họ chỉ nhận mình là người Việt, hoặc từ chối chỉ nhằm nhượng bộ trước những câu hỏi về nguồn gốc của mình. Bởi vậy, nếu ai đó hỏi tôi có phải là người Việt Nam hay không, tôi sẽ trả lời họ rằng “có và không”, và chờ đợi một câu hỏi khác.
NGUYỄN THANH VIỆT